3 vị vua tạo nên sự thịnh vượng của nhà Lý

Niên hiệu là danh hiệu của vị vua được đặt khi lên ngôi, đại diện cho một giai đoạn nhất định để muôn dân gọi thay cho tên chính. Vua là Thiên tử nên niên hiệu cũng phải mang ý nghĩa và giá trị biểu trưng cho sự thịnh vượng. Việc tuyên bố niên hiệu khi một niên hiệu khác vẫn được sử dụng sẽ bị coi là thách thức đối với hoàng đế đương nhiệm. 

Ảnh hưởng từ Trung Quốc

Theo sử liệu, các triều đại phong kiến Việt Nam có tất cả 144 niên hiệu. Vì niên hiệu Thái Bình của nhà Đinh được dùng liên tục trong cả hai triều vua kế tiếp nhau [hai lần liên tục, nhưng coi là một vì triều vua sau chỉ tồn tại không đến 1 năm].

Niên hiệu Thuận Thiên được cả hai ông vua đầu triều của nhà Lý [Lý Thái Tổ] và nhà Hậu Lê [Lê Thái Tổ] lấy làm tên cho những năm đầu trị vì của mình [hai lần, nhưng không liên tục và ở 2 triều đại khác nhau].

Các giai đoạn lịch sử mà có tới 2 niên hiệu song song cùng tồn tại trên hai phần lãnh thổ nào đó của Việt Nam, là: Giai đoạn 1533 - 1677 [phân tranh giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê] và 1778 - 1793 [chuyển tiếp giữa nhà Hậu Lê và nhà Tây Sơn].

Các niên hiệu thường chỉ có 2 chữ, nhưng điều khác biệt của nhà Lý có lúc lên tới 4 chữ. Thậm chí, vua Lý Nhân Tông còn đạt kỷ lục về việc thay đổi niên hiệu, khi 8 lần thay đổi. Điều này khác biệt với nhà Nguyễn sau này, các vua chỉ dùng một niên hiệu duy nhất trong suốt thời gian trị vì của mình.

Việc đặt niên hiệu đã quan trọng, việc thay đổi niên hiệu cũng quan trọng không kém. Vua phải ban ra chiếu, thông báo rộng rãi trong cả nước và có thư hàm thông báo đến các nước bang giao. Như vào năm 2019, Nhật Bản công bố niên hiệu mới là Lệnh Hoà khi hoàng Thái tử Naruhito đăng quang, chính thức lên ngôi, trở thành Thiên hoàng thứ 126 của Nhật Bản.

Niên hiệu các triều đại ở Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều từ Trung Quốc. Nhà Lý có nhiều vua đặt niên hiệu dài 4 chữ [Thiên Ứng Chính Bình, Chính Long Bảo Ứng, Càn Phù Hữu Đạo, Thiên Chương Hữu Đạo...], tương tự như nhiều niên hiệu của các vua nhà Tống [Thái Bình Hưng Quốc, Đại Trung Tường Phù, Kiến Trung Tĩnh Quốc...].

Các vua cuối thời Hậu Lê và thời Nguyễn thường đặt duy nhất một niên hiệu [như Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Gia Long, Minh Mạng...], tương tự như các vua nhà Thanh [Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh...].


Bia Lý Thái Tổ bên sông Sào Khê tại Cố đô Hoa Lư, nơi vua ban Chiếu dời đô.

Thuận mệnh Trời thay thế nhà Lê


Lý Thái Tổ sáng lập nhà Lý và chỉ lấy một niên hiệu “Thuận Thiên”.

Đặt niên hiệu gần như một quy định bắt buộc mang tính quốc gia. Tuy nhiên ý nghĩa của các niên hiệu thì không phải ai cũng tỏ tường. Đặc biệt, vương triều nhà Lý ẩn chứa nhiều bí ẩn, mà sau này các nhà nghiên cứu lịch sử đã cố gắng giải mã.

Vua đầu tiên sáng lập nhà Lý là Lý Thái Tổ [Lý Công Uẩn] ở ngôi 18 năm [1009 - 1028]. Trong thời gian trị vì, Lý Thái Tổ chỉ đặt một niên hiệu là Thuận Thiên có nghĩa là Thuận với ý trời. Niên hiệu đầu tiên của vị vua nhà Lý cũng thể hiện thông điệp“mệnh Trời”, là Thiên tử xứng đáng thay thế nhà Tiền Lê.

Sau khi Lý Thái Tổ băng hà, Lý Phật Mã lên ngôi lấy miếu hiệu là Lý Thái Tông, trị vì 26 năm. Hoàng đế Thái Tông được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua loạn ba vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ triều Lý.

Trong thời gian làm vua, Lý Thái Tông đã đặt 6 niên hiệu: Thiên Thành [1028 - 1034] - trời tác thành mà được làm vua. Thông Thụy [1034 - 1039] - điềm lành thông suốt. Càn Phù Hữu Đạo [1039 - 1042] - trời ban mệnh và phù giúp. Minh Đạo [1042 - 1044] - đạo Trời sáng tỏ. Thiên Cảm Thánh Vũ [1044 - 1049] - trời cảm ứng ban cho uy vũ. Sùng Hưng Đại Bảo [1049 - 1054] - nhờ sùng kính Trời mà được báu vật.

Vị vua thứ 3 là Lý Nhật Tôn [Lý Thánh Tông] trị vì 18 năm [1054 - 1072]. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đánh giá: “Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về người xa, yên ủi người gần, đặt khoa Bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, có thể gọi là bậc vua tốt”.

Trong thời gian 18 năm, vua Lý Thánh Tông đặt 5 niên hiệu: Long Thụy Thái Bình [1054 - 1058] - điềm rồng xuất hiện báo hiệu thái bình. Chương Thánh Gia Khánh [1059 - 1065] - Thánh thần phù trợ rạng rỡ, vui mừng. Long Chương Thiên Tự [1066 - 1068] – thừa tự ngôi rồng rạng rỡ của Trời. Thiên Huống Bảo Tượng [1068- 1069] - trời ban phúc cho voi quý. Thần Vũ [1069 - 1072] - biểu dương vũ lực như thần.

Vị vua có nhiều niên hiệu nhất


Vua Lý Nhân Tông có tới 8 niên hiệu – trở thành vị vua có nhiều niên hiệu nhất.

Vua Thánh Tông băng hà, Lý Nhân Tông lên ngôi trị vì trong suốt 55 năm [1072 - 1127]. Ông là vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử. Các nhà sử học ca ngợi Lý Nhân Tông là người “nhân hiếu, có tiếng đức tốt, trọng kén chọn danh thần, đặt khoa thi tiến sĩ, cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khóa, ít lao dịch…”.

Trong thời gian làm vua, Lý Nhân Tông đã đặt 8 niên hiệu: Thái Ninh [1072 - 1076] - thiên hạ được an ninh hạnh phúc. Anh Vũ Chiêu Thắng [1076 - 1084] - vũ lực hùng mạnh đem lại chiến thắng. Quảng Hựu [1085 - 1092] - phù hộ lan tỏa. Hội Phong [1092 - 1100] - hội tụ tốt lành. Long Phù [1101 - 1109] - điềm lành từ rồng. Hội Tường Ðại Khánh [1110 - 1119] - hội tụ các điều tốt lành lớn. Thiên Phù Duệ Vũ [1120 - 1126] - Trời phù giúp để có võ công rực rỡ. Thiên Phù Khánh Thọ [1127] - Trời phù hưởng thọ.

Vị vua thứ 5 của nhà Lý là Lý Thần Tông [Lý Dương Hoán], làm vua 10 năm [1128 - 1138]. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Vua khi mới lên ngôi hãy còn trẻ dại, đến khi lớn lên, tư chất thông minh, độ lượng nên việc sửa sang chính sự, dùng người hiền tài, thủy chung đều chính, nhiệm nặt khúc nôi, không gì sai lệch. Tuy thân mang ác tật nhưng rồi chữa lành, cũng là nhờ có ý trời cả”.

Trong 10 năm làm vua, Lý Thần Tông đặt 2 niên hiệu: Thiên Thuận [1128 - 1133] - thuận theo mệnh Trời. Thiên Chương Bảo Tự [1133 - 1138] - mệnh Trời rạng rỡ tôn quý.

Vua Thần Tông qua đời, Lý Anh Tông [Lý Thiên Tộ] lên ngôi trị vì 37 năm [1138 - 1175]. Ông là người biết quản lý, điều hành chính trị, “không mê hoặc lời nói đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không hổ thẹn với trách nhiệm gánh vác” [Đại Việt sử ký toàn thư].

Lý Anh Tông đặt 4 niên hiệu: Thiệu Minh [1138  1139] - nối tiếp sự anh minh. Đại Định [1140 - 1162] nghĩa là sự ổn định lớn. Chính Long Bảo Ứng [1163 - 1174] - ứng với đạo Trời. Thiên Cảm Chí Bảo [1174 - 1175] - Trời cảm động ban báu vật.

Lý Cao Tông [Lý Long Trát] thay vua Anh Tông và làm vua trong 35 năm [1175 - 1210] tuy cũng làm được một số việc mà sử sách ghi nhận là tốt, nhất là giai đoạn những năm đầu làm vua nhưng chủ yếu ham chơi, đắm chìm trong tửu sắc. Lý Cao Tông đặt 4 niên hiệu: 

Trinh Phù [1176-  1186] - theo phù mệnh Trời để bền vững. Thiên Tư Gia Thụy [1186 - 1202] - điềm lành Trời ban. Thiên Gia Bảo Hựu [1202 - 1205] - Trời phù hộ họ Lý. Trị Bình Long Ứng [1205 - 1210] - rồng ứng hiện, quốc gia thái bình.


Lý Chiêu Hoàng là vị vua cuối cùng của nhà Lý với niên hiệu Thiên Chương Hữu Đạo - đạo Trời sáng tỏ.

Vua Cao Tông băng hà, Lý Huệ Tông [Lý Hạo Sảm] lên ngôi trị vì 14 năm [1211 - 1224]. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: “Đến đời Huệ Tông cái rường mối hư hỏng của thiên hạ đã quá lắm mà vua thì không phải người giỏi giang cứng cáp… Thế là cái điềm nguy vong đã hiện ra rồi”. Trong thời gian làm vua, Lý Huệ Tông đặt một niên hiệu là Kiến Gia - nghĩa là xây dựng sự tốt lành.

Sau khi Lý Huệ Tông bị bức tự tử, công chúa Lý Chiêu Hoàng [Lý Phật Kim], theo sự sắp đặt của Trần Thủ Độ lên ngôi vua hơn 1 năm, thì bị họ Trần lập kế nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Tuổi thơ lên ngôi báu khi vương triều đã suy vong không thể cứu vãn, nhà Lý chấm dứt từ đây.

Lý Chiêu Hoàng chỉ đặt một niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo - đạo Trời sáng tỏ.

Trị vì 216 năm, trải qua 9 đời vua với 32 niên hiệu cho thấy nhà Lý luôn hướng tới những điều tốt lành. Tuy nhiên, cũng có đời thiên tư nhiều về những điều mang tính thần thánh, mê tín nên ít nhiều có ảnh hưởng tác động đến việc chọn và đặt niên hiệu.

Tuy nhà Lý có 9 vị vua, nhưng chỉ có 8 vị được thờ trong đền Lý Bát Đế. Còn vua bà Lý Chiêu Hoàng không được thờ tại đây, vì theo một số giả thuyết cho rằng bà có lỗi trong việc đánh mất vương triều. Đền Lý Bát Đế được khởi công xây dựng từ ngày 3/3 năm Canh Ngọ [1030] bởi Lý Thái Tông, khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cho Thái Tổ hoàng đế.

Vị vua nhân từ

Lý Thái Tông [1000 – 1054] là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Nhà Lý, cai trị trong 26 năm [1028–1054]. Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của Nhà Lý.

Lý Thái Tông tên thật là Lý Phật Mã, là con trưởng của Lý Thái Tổ, được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua Loạn Tam vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ. Đế củng cố quyền lực cho Nhà Lý, bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp loạn đảng làm phản như loạn họ Nùng; bên ngoài đánh được Chiêm Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển phồn thịnh.

Đối với quần thần, Thái Tông thường tỏ ra nhân từ, không xử tội các Vương tham gia vụ loạn tam vương, cho tha tội mà còn phục chức. Đối với kẻ thù như Chiêm Thành, vua còn ra lệnh không tùy tiện chém giết, lệnh cho binh lính không được làm bậy. Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Tấm lòng ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ chăng?! Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm”.

Lý Thái Tông lên làm vua đã hơn 15 năm, mà nước Chiêm Thành láng giềng không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thấy vậy, năm 1044, vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ. Lý Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm thua chạy. Quân Lý bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi. Tướng Chiêm là Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.

Bấy giờ quân Chiêm Thành và dân bản xứ bị giết rất nhiều. Vua Thái Tông trông thấy động lòng thương, ra lệnh cấm không được giết người Chiêm, hễ ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội.

Ông tiến binh đến quốc đô Phật Thệ [nay ở làng Nguyệt Hậu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế], vào thành bắt được vương phi Mỵ Ê và các cung nữ đem về. Mỵ Ê giữ tiết không chịu lấy vua, nhảy xuống sông tự tử. Mỵ Ê được ông khen là trinh tiết, phong làm Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu [nay là Quy Hóa], đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành.

Ban hành Hình t

Thái Tông Hoàng đế còn chủ trương sửa lại luật pháp, định các bậc hình phạt, các cách tra hỏi. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta, người chủ đánh chết ngay lúc bấy giờ thì không bị tội. Những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến các thân thuộc Đế từ hạng đại công trở lên phạm tội thì cho chuộc bằng tiền, nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này.

Xuống chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu, ngoài 10 phần phải nộp quan được lấy thêm một phần nữa, gọi là “hoành đầu”. Lấy quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú dịch cho cả nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau thu quá lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô và người thu thuế cũng phải tội như nhau.

Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện. Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử.

Năm 1042, Thái Tông Hoàng đế ban Hình thư. Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo.

Bộ luật Hình thư năm 1042 được xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp nước ta. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế… Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp… [Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn – Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr 272, 273]

Ngay sau khi ban hành luật, nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội, trừ khi người đó phạm phải những tội trong thập ác:

1.Mưu phản: làm nguy xã tắc 2.Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết 3.Mưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặc 4.Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ 5.Bất đạo: giết người vô tội 6.Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua 7.Bất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ 8.Bất mục: đánh giết những người thân thuộc gần 9.Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng, con giết cha

10.Nội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha.

Năm 1043, Lý Thái Tông đặt thêm quy định: Ai trộm lúa của dân sẽ bị đánh 100 trượng; nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu. Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trường và thích 30 chữ.

Năm 1043, tháng 8, vua xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đáng trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc. Xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ.

Bộ luật này có đề cập tới vấn đề xét xử tội tham ô, hối lộ. Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép: Vào năm Quý Mùi [1043], vua đã xuống chiếu cho Quyến khố ty [ty coi việc kho lụa] “ai nhận riêng một thước lụa của người thì xử 100 trượng, từ 1 tấm đến 10 tấm trở lên thì phạt trượng theo số tấm, gia thêm khổ sai 10 năm”.

Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu lực vẫn còn hạn chế.

Hình thư hiện đã bị thất truyền.

Đề cao sự khoan hồng

Lý Thái Tông còn được lịch sử ghi nhớ vì quy định về tuyên thệ như một nghi thức của triều đình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, hàng năm, vua cùng quần thần đến đền Đồng Cổ [Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội ngày nay] để cùng phát thệ: “Kẻ nào làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh tru diệt”. Lễ thức này được duy trì qua nhiều triều vua đời Lý và sang cả đời Trần.

Nhiều lần dùng binh từ Nam chí Bắc nhưng Lý Thái Tông tỏ ra là vị hoàng đế bao dung, nhân hậu. Các sử gia cho rằng Lý Thái Tông cũng như nhiều hoàng đế Nhà Lý khác có lượng khoan hồng vì ảnh hưởng của quốc giáo là đạo Phật. Trừ người em Vũ Đức vương làm loạn bị giết, với những vương tôn phản loạn khác ông đều tha tội. Trong cuộc phản loạn của các vương tôn, nhờ người em thứ hai của Thái Tông là Khai Quốc vương đem quân giải vây cho Thăng Long và Trường Yên [kinh đô Hoa Lư] giúp ông chống lại quân nổi loạn và chính Khai Quốc vương vận động quần thần tôn ông lên ngôi. Nùng Trí Cao nhiều lần làm phản nhưng ông vẫn đối đãi khá rộng lượng. Vì vậy nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo quan điểm Nho giáo chê ông “mê hoặc theo thuyết từ ái của đạo Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch”.

Có thể nói, nhà Lý trường tồn trên 200 năm lịch sử, đưa đất nước vào giai đoạn cường thịnh có phần đóng góp to lớn của Hình thư, cai trị đất nước bằng pháp luật. Dẫu cũng có những quy định khắc nghiệt nhưng nhìn chung đó là bộ luật chặt chẽ nhưng nhân đạo, vua Lý Thái Tông xứng đáng là vị vua anh minh, cả về võ công và văn trị, nhìn từ góc độ xét xử, ông là một nhân vật tiêu biểu cho tinh thần nghiêm minh kết hợp với nhân đạo, khoan dung.

Video liên quan

Chủ Đề