Bài văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học

Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.

I. Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học là gì?

– Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học [bài văn, bài thơ, đoạn văn, đoạn thơ] là trình bày những cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng, suy nghĩ của mình về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó.

– Những cảm nghĩ ấy có thể là cảm xúc về cảnh, về người trong tác phẩm, cảm xúc về tâm hồn, số phận nhân vật trong tác phẩm cảm xúc về vẻ đẹp ngôn từ trong tác phẩm.

II. Những yêu cầu cơ bản khi làm bài.

a, Đọc kĩ, hiểu sâu, diễn cảm và hiểu giá trị nội dung của tác phẩm.

– Đối với văn xuôi:

+ Nhớ nội dung, bố cục, nhân vật, sự kiện

+ Thuộc một số đoạn văn hay.

– Đối với thơ

+ Thuộc thơ

+ Nắm chắc, ghi lại những nội dung cơ bản và nghệ thuật của tác phẩm [từ ngữ, nhịp điệu các biện pháp tu từ. Thể thơ, các hình ảnh tượng trưng].

→ Từ những hiểu biết mà hình thành ấn tượng, cảm xúc về tác phẩm.

b, Bài văn phát biểu cảm nghĩ phải có cảm xúc, suy nghĩ riêng của người viết.

c, Để tìm ý cho bài văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học nên đặt ra và trả lời các câu hỏi sau:

– Tác phẩm có mấy nội dung? Nội dung ấy có gì hấp dẫn hoặc để lại cho em ấn tượng gì sâu sắc?

– Tác phẩm có những đặc sắc gì về nghệ thuật? Thể loại, ngôn ngữ, bố cục trong tác phẩm có gì đặc biệt? Những chi tiết nào để lại cho em ấn tượng sâu sắc và đó là ấn tượng gì?

– Những chi tiết, hình ảnh nào để lại cho em những rung cảm sâu sắc nhất, những chi tiết ấy khiến em liên tưởng đến hình ảnh chi tiết trong tác phẩm nào khác mà em đã học.

– Tác phẩm giúp em hiểu thêm điều gì về tác giả [tâm hồn, tư tưởng, nhân cách].

– Tác phẩm giúp em có suy nghĩ, cảm xúc gì và rút ra được bài học nào cho mình trong cuộc sống.

d, Các thao tác phân tích dẫn chứng trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học

* Giải thích: là cắt nghĩa, lý giải cái hay, cái đặc sắc của một từ ngữ, hình ảnh, chi tiét trong tác phẩm văn học. Đây là thao tác thường gặp để giúp người đọc hiểu được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

– Để giảng giải tốt cần rất nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến khả năng cảm nhận từ ngữ. Có hiểu nghĩa của từ mới hiểu được ý nghĩa gửi gắm trong những từ ngữ ấy.

* Liên tưởng, so sánh:

– Đây là thao tác rất hay gặp trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học. Đọc một chi tiết, hình ảnh, từ ngữ…trong tác phẩm này chúng ta có thể liên tưởng đến một chi tiết, hình ảnh, từ ngữ trong tác phẩm khác.

– So sánh chính là làm rõ chỗ giống và khác nhau của tác giả này với tác giả khác; của cùng một tác giả nhưng ở những giai đoạn khác nhau.

– Liên tưởng, so sánh làm cho bài viết phong phú, sâu sắc hơn. Tuy nhiên chỉ những chi tiết, hình ảnh hay trong bài mới nên tìm đối tượng so sánh.

* Hình dung, tưởng tượng:

– Là nhập vào thế giới nhân vật, hình ảnh của tác phẩm để hình dung về tư thế, hình ảnh, tâm trạng của nhân vật, không gian – thời gian của tác phẩm.

– Thao tác hình dung, tưởng tượng là cách tốtt để người viết đưa yếu tố tự sự. Miêu tả vào trong bài văn biểu cảm một cách tự nhiên và hiệu quả.

e, Sử dụng từ ngữ và viết câu trong bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học

– Trong bài văn biểu cảm cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu: câu dài, câu ngắng, câu cảm, câu hỏi để bộc lộ cảm xúc.

– Đôi khi không nên sử dụng kiểu câu khẳng định tuyết đối.

Soạn văn 7 tập 1 bài 13 [trang 154]

Download.vn sẽ cung cấp bài Soạn văn 7: Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học, học sinh sẽ biết cách làm một bài văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.

Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học

Hy vọng với tài liệu này học sinh sẽ có thêm những kiến thức hữu ích khi học môn Ngữ văn lớp 7.

Soạn văn 7: Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học

Cho đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về một trong hai bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cảnh khuya, Rằm tháng giêng.

I. Rằm tháng giêng

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh, bài thơ “Rằm tháng giêng”.

- Cảm xúc chung của em khi đọc bài thơ “Rằm tháng giêng”.

2. Thân bài

* Cảm nhận về thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng

- Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” - trăng đúng lúc tròn nhất. Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng.

- Sức sống của mùa xuân “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”: Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân và sắc xuân đang trỗi dậy. Khung cảnh tràn đầy sức sống.

=> Hai câu đầu đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp, bát ngát, rộng lớn và tràn đầy sức sống.

* Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc

- Công việc: “đàm quân sự” - bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, bàn việc sinh tử của của dân tộc.

- Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.

=> Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.

3. Kết bài

- Nêu đánh giá về nội dung, giá trị của bài thơ “Rằm tháng giêng”.

- Nêu cảm nhận về tác giả Hồ Chí Minh.

II. Cảnh khuya

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh, bài thơ “Cảnh khuya”

- Cảm nhận chung về bài thơ.

2. Thân bài

* Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng thông qua những nét vẽ về khung cảnh núi rừng Việt Bắc.

- Vẻ đẹp của bức tranh cảnh khuya được gợi lên từ thanh âm: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”, gợi lên vẻ đẹp tĩnh lặng, gần gũi và ấm áp.

- Bức tranh đêm trăng hiện lên giàu chất tạo hình trong những nét vẽ: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, gợi vẻ đẹp quyện hòa, đan cài của thiên nhiên.

* Cảm nhận về tâm hồn thi sĩ quyện hòa cùng chất chiến sĩ của nhân vật trữ tình

- Hình ảnh đó gợi lên từ trạng thái “cảnh khuya như vẽ”, khắc họa rõ nét cốt cách người nghệ sĩ, thể hiện sự rung động trước vẻ đẹp của đêm trăng chốn núi rừng Việt Bắc.

- Hình ảnh “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” gợi mở vẻ đẹp của phẩm chất người chiến sĩ.

- Điệp từ “chưa ngủ” được nhắc lại hai lần đã tô đậm hơn nữa tình yêu thiên nhiên quyện hòa cùng tình yêu đối với nhân dân, đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3. Kết bài

- Nêu đánh giá về nội dung, giá trị của bài thơ “Cảnh khuya”.

- Nêu cảm nhận về tác giả Hồ Chí Minh

Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học - Mẫu 2

I. Rằm tháng giêng

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn là một nhà thơ nhà văn lớn. Một trong những tác phẩm Người để lại có thể kể đến “Rằm tháng giêng”. Bài thơ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về phong cách sáng tác của Hồ Chủ tịch.

Đầu năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp [1947 - 1948]. Cuộc họp kết thúc khi đêm cũng đã về khuya, ánh trăng đêm rằm tròn đầy, sáng tỏ. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

Bài thơ mở đầu với việc Bác đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Và rôi “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Thơ ca xưa thì những hình ảnh như “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật. Điều đó đã cho thấy nét độc đáo trong thơ của Bác.

Không chỉ thiên nhiên, con người cũng xuất hiện trong bức tranh đó, với tư cách là chủ thể trữ tình. Giữa màn sương khói mờ ảo, con người hiện ra trong công việc “đàm quân sự” - một công việc quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước.

Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng - họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Đặc biệt ở đây, công việc của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ. Công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Hình ảnh ở cuối bài thơ thật đặc sắc: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh ánh trăng tròn đây đến độ lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Những câu thơ đã giúp người đọc hiểu được một tâm hồn lạc quan, mơ mộng và yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ “Rằm tháng giêng” gợi ra tình yêu thiên nhiên cũng như lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Người đọc thêm yêu thơ của Bác cũng là vì thế.

II. Cảnh khuya

Hồ Chí Minh là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của người là bài thơ “Cảnh khuya”:

Hai câu thơ mở đầu gợi cho người đọc ấn tượng về khung cảnh thiên nhiên của vùng núi Tây Bắc trong đêm khuya:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Đầu tiên, Người đã khắc họa bức tranh thiên nhiên với “tiếng suối”. Hình ảnh so sánh “tiếng suối trong như tiếng hát” gợi ra cảm nhận về âm thanh trong trẻo, ngọt ngào. Tiếp đến là hình ảnh ánh trăng vốn đã quen thuộc trong thơ của Bác:

“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

[Ngắm trăng]

Hay như:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về”

[Tin thắng trận, 1948]

Ánh trăng trong bài thơ “Cảnh khuya” hiện lên với nét độc đáo riêng: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Câu thơ có thể được hiểu theo hai cách khác nhau. Một là ánh trăng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây, chiếu xuống cả những bông hoa rừng. Không gian tràn ngập ánh trăng sáng. Hai là ánh trăng sáng chiếu xuống mặt đất xuyên qua những tán cây chiếu xuống mặt đất giống như những bông hoa. Dù hiểu theo nét nghĩa nào thì cũng gợi ra một bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng, huyền ảo.

Hai câu thơ tiếp theo bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”

Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc là một cảnh đẹp hiếm có. Nhưng trong bức tranh thiên nhiên đó, hình ảnh con người hiện lên với những suy tư. Người “chưa ngủ” phải chăng là vì bức tranh thiên nhiên quá đỗi thơ mộng khiến người thi sĩ phải thao thức? Hay “người chưa ngủ” là vì đang lo lắng cho nhân dân, đất nước? Có lẽ muốn hiểu được, chúng ta phải đặt trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác “Cảnh khuya” khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp [1946 - 1954]. Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên căn cứ Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lãnh đạo của quân ta. Nhưng với sự đồng lòng cùng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chiến dịch Việt Bắc đã làm thất bại kế hoạch của quân địch. Bác lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, cho cuộc sống của nhân dân. Có thể thấy rằng, “người chưa ngủ” chính là vì lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, nhân dân. Từ “chưa ngủ” được lặp lại hai lần nhằm nhấn mạnh tâm trạng lo âu, sự trăn trở của nhà thơ đối với cuộc sống nhân dân, sự nghiệp cách mạng của đất nước trong hoàn cảnh đất nước ta đang bị xâm lược bởi thực dân Pháp.

Bài thơ “Cảnh khuya” với ngôn từ giản dị không chỉ khắc họa cảnh thiên nhiên dưới ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc cũng như thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ. Bài thơ gợi cho người đọc những cảm xúc thật sâu sắc về tấm lòng của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cập nhật: 17/11/2021

Video liên quan

Chủ Đề