Biện pháp viết tập làm văn miêu tả lớp 4

  1. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

C hương I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NÂNG CAO KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4

  1. Cơ sở lí luận

1.1. Mục tiêu của dạy viết văn miêu tả lớp 4

1.1.1. Yêu cầu kiến thức: Thể loại văn miêu tả.

- Học sinh hiểu thế nào là miêu tả?

- Kiểu bài Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.

- Kiểu bài Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.

- Kiểu bài Miêu tả con vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.

1.1.2. Yêu cầu kĩ năng: Chương trình Tập làm văn miêu tả nhằm trang bị cho học sinh những kĩ năng cụ thể sau:

- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận diện đặc điểm văn bản, phân tích đề bài, xác định yêu cầu.

- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đã cho, quan sát đối tượng, tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.

- Kĩ năng thực hiện hóa hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt; sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.

1.2. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4

Chương trình Tập làm văn lớp 4 được thiết kế tổng cộng 62 tiết / năm. Trong đó văn miêu tả gồm 30 tiết được phân bố như sau:

HỆ THỐNG VĂN MIÊU TẢ LỚP 4 [HKI VÀ HK II]

TUẦN

TÊN BÀI

MỤC TIÊU

Tuần 14

1.Thế nào là văn miêu tả?

- Hiểu được thế nào là miêu tả?

- Nhận biết được câu văn miêu tả trong truyện Chú Đất Nung; bước đầu viết được 1, 2 câu miêu tả một trong những hình ảnh em yêu thích trong bài thơ Mưa.

2.Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật.

- Nắm được cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật, các kiểu mở bài, kết bài, trình tự miêu tả trong phần thân bài.

- Biết vận dụng để viết mở bài, kết bài cho bài văn miêu tả cái trống trường.

Tuần 15

1. Luyện tập miêu tả đồ vật.

- Nắm vững cấu tạo 3 phần [mở bài, thân bài, kết bài] của bài văn miêu tả đồ vật và trình tự miêu tả; hiểu vai trò của quan sát trong việc miêu tả những chi tiết của bài văn, sự xen kẽ của lời tả với lời kể.

- Lập dàn ý cho bài văn tả chiếc áo mặc đến lớp.

2.Quan sát đồ vật.

- Biết quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lý, bằng nhiều cách khác nhau; phát hiện được đặc điểm phân biệt đồ vật đó với đồ vật khác; dựa vào kết quả quan sát biết lập dàn ý để tả một đồ chơi quen thuộc

Tuần 16

Luyện tập miêu tả đồ vật.

- Dựa vào dàn ý đã lập [TLV tuần 15], viết được một bài văn miêu tả đồ chơi em thích với ba phần: mở bài, thân bài, kết bài

Tuần 17

1. Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật.

- Hiểu được cấu tạo của đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật, hình thức thể hiện giúp nhận biết mỗi đoạn văn.

- Nhận biết được cấu tạo của đoạn văn; viết được một đoạn văn tả bao quát một chiếc bút.

2. Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật.

- Nhận biết được đoạn văn thuộc phần nào trong bài văn miêu tả, nội dung miêu tả của từng đoạn, dấu hiệu mở đầu của đoạn văn; viết được đoạn văn tả hình dáng bên ngoài, đoạn văn tả đặc điểm bên trong của chiếc cặp sách.

Tuần 19

1. Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả đồ vật.

- Nắm vững hai cách mở bài [trực tiếp, gián tiếp] trong bài văn tả đồ vật

- Viết được đoạn mở bài cho bài văn miêu tả đồ vật theo hai cách trên.

2. Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả đồ vật.

- Nắm vững hai cách kết bài [mở rộng, không mở rộng] trong bài văn tả đồ vật.

- Viết được đoạn kết bài mở rộng cho bài văn miêu tả đồ vật.

Tuần 20

Miêu tả đồ vật [Kiểm tra viết]

- Biết viết hoàn chỉnh bài văn tả đồ vật đúng yêu cầu của đề bài, có đủ ba phần [mở bài, thân bài, kết bài], diễn đạt thành câu rõ ý.

Tuần

21

1.Trả bài văn miêu tả đồ vật

- Biết rút kinh nghiệm bài TLV tả đồ vật [đúng ý, bố cục rõ, dùng từ, đặt câu và viết đúng chính tả, ...] ; tự sửa được các lỗi đã mắc trong bài viết theo sự hướng dẫn của giáo viên.

  1. 2.Cấu tạo bài văn miêu tả cây cối.

- Nắm được cấu tạo 3 phần [mở bài, thân bài, kết bài] của bài văn miêu tả cây cối.

- Nhận biết được trình tự miêu tả trong bài văn miêu tả cây cối; biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả quen thuộc theo 1 trong 2 cách đã học.

Tuần 22

  1. 1.Luyện tập quan sát cây cối.

- Biết quan sát cây cối theo trình tự hợp lí, kết hợp giữa các giác quan khi quan sát; bước đầu nhận ra sự giống nhau giữa miêu tả một loài cây với miêu tả một cái cây.

- Ghi lại được các ý quan sát về một cây em thích theo một trình tự nhất định.

  1. 2.Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối.

- Nhận biết được một số đặc điểm đặc sắc trong cách quan sát và miêu tả các bộ phận của cây cối trong đoạn văn mẫu; viết được đoạn văn ngắn tả lá [thân, gốc] một cây em thích.

Tuần 23

1. Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối

- Nhận biết được một số đặc điểm đặc sắc trong cách quan sát và miêu tả các bộ phận của cây cối [hoa, quả] trong đoạn văn mẫu; viết được đoạn văn ngắn tả một loài hoa em thích.

- Nắm được đặc điểm nội dung và hình thức của đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối.

- Nhận biết và bước đầu biết cách xây dựng một đoạn văn nói về lợi ích của loài cây em biết.

Tuần 24

Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối.

- Vận dụng những hiểu biết về đoạn văn trong bài văn tả cây cối đã học để viết được một số đoạn văn [còn thiếu ý] cho hoàn chỉnh.

Tuần 25

Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả cây cối.

- Nắm được 2 cách mở bài [trực tiếp, gián tiếp] trong bài văn miêu tả cây cối; vận dụng kiến thức đã biết để viết được đoạn mở bài cho bài văn tả một cây mà em biết.

Tuần 26

1.Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả cây cối.

- Nắm được hai cách kết bài [mở rộng, không mở rộng] trong bài văn tả miêu tả cây cối; vận dụng kiến thức đã biết để bước đầu viết được đoạn kết bài mở rộng cho bài văn tả cái cây mà em thích.

2. Luyện tập miêu tả cây cối.

- Lập được dàn ý sơ lược bài văn tả cây cối nêu trong đề bài.

- Dựa vào dàn ý đã lập, bước đầu viết được các đoạn mở bài, thân bài, kết bài cho bài văn tả cây cối xác định.

Tuần 27

1.Miêu tả cây cối [Kiểm tra viết].

- Biết viết hoàn chỉnh bài văn tả cây cối theo gợi ý đề bài trong SGK [hoặc do GV lựa chọn], biết viết đủ ba phần [mở bài, thân bài, kết bài], diễn đạt thành câu, lời tả tự nhiên, rõ ý.

2.Trả bài văn miêu tả cây cối.

- Biết rút kinh nghiệm bài tập làm văn tả cây cối [đúng ý, bố cục rõ, dùng từ, đặt câu và viết đúng chính tả, ...]; tự sửa được các lỗi đã mắc trong bài viết theo sự hướng dẫn của giáo viên.

Tuần 29

  1. Cấu tạo bài văn miêu tả con vật

- Nhận biết được 3 phần [mở bài, thân bài, kết bài] của bài văn miêu tả con vật.

- Biết vận dụng những hiểu biết về cấu tạo bài văn miêu tả con vật để lập dàn ý tả một con vật nuôi trong nhà.

Tuần 30

Luyện tập quan sát con vật

- Nêu được nhận xét về cách quan sát và miêu tả con vật qua bài văn Đàn ngan mới nở; bước đầu biết cách quan sát một con vật để chọn lọc các chi tiết nổi bật về ngoại hình, hoạt động và tìm từ ngữ để miêu tả con vật đó.

Tuần 31

1.Luyện tập miêu tả các bộ phân của con vật

- Nhận biết được những nét tả bộ phận chính của con vật trong đoạn văn; quan sát các bộ phận của con vật em yêu thích và bước đầu tìm được những từ ngữ miêu tả thích hợp.

2. Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật.

- Nhận biết được đoạn văn và ý chính của từng đoạn trong bài văn tả Con chuồn chuồn nước; biết sắp xếp các câu có trước thành một đoạn văn; bước đầu viết được một đoạn văn có câu mở đầu cho sẵn.

Tuần 32

1. Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật.

- Nhận biết được đoạn văn và ý chính của đoạn trong bài văn tả con vật, đặc điểm hình dáng bên ngoài và hoạt động của con vật được miêu tả trong bài văn; bước đầu biết vận dụng kiến thức đã học để viết được đoạn văn tả ngoại hình, tả hoạt động của một con vật em yêu thích.

2. Luyện tập xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn miêu tả con vật.

- Nắm vững kiến thức đã học về đoạn mở bài, kết bài trong bài văn tả con vật để thực hành luyện tập; bước đầu viết được đoạn mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng cho bài văn tả con vật yêu thích.

Dạy học văn miêu tả có thể chia thành hai phần: dạy lí thuyết và dạy thực hành.

II. Thực trạng

2.1. Thuận lợi

- Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả, góp phần nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên.

- Giáo viên đều được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo, các phương tiện dạy học như máy chiếu để dạy giáo án điện tử. Đội ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề, đã áp dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh một cách linh hoạt và hiệu quả.

- Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.

- Đối tượng miêu tả khá gần gũi với học sinh.

- Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật, cây cối là những người bạn thân thiết, gần gũi, các em có thể tâm sự, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú vị,...

2.2. Khó khăn

- Như chúng ta đã biết, sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các văn bản ở dạng nói, dạng viết theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm của việc học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hóa, văn minh của một người. Đối với học sinh, năng lực viết chứng tỏ tư duy logic, tư duy hình tượng đã phát triển ở một mức độ nhất định.

- Nhưng lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành đoạn văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Mỗi bài văn miêu tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó cũng là điều trăn trở của tôi cũng như của các đồng chí giáo viên trong khối 4.

- Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm tòi, tham khảo tài liệu, trao đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để nắm bắt những phương pháp tối ưu nhất phục vụ quá trình giảng dạy.

Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết việc tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học sinh, ta có thể thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.

Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh 2 lớp 4 cuối học kì I năm học này có số liệu cụ thể như sau:

Lớp

Số bài

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu

4A2

50

48 HS = 96%

2 HS = 4%

4A5

50

45 HS = 90%

5 HS = 10%

Nhìn vào bảng trên, tôi thấy số học sinh chưa đạt yêu cầu còn khá cao. Vì vậy, giáo viên cần phải có biện pháp thích hợp nhằm giúp phát huy khả năng, năng lực của các em trong làm văn miêu tả.

2.3. Kiểm nghiệm bài văn miêu tả của học sinh lớp 4

2.3.1. Một số lỗi thường gặp

- Những vấn đề chung thường gặp ở bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 là: bài văn ngắn, câu cụt, kể lể, ít hình ảnh, ...

VD:

+ Cái cặp của em nhiều màu. Mặt trước có hình siêu nhân rất đẹp. Nó có ba ngăn. Một ngăn em để bút, một ngăn em để vở, một ngăn em để sách giáo khoa.

+ Cây bàng cao đến mái nhà. Thân nó to, xù xì. Cây bàng có nhiều cành, tán rộng. Lá màu xanh. Quả có vị chát.

Đoạn văn như trên được coi là tạm được vì đúng ý, câu văn rõ nghĩa. Nhưng miêu tả như vậy chỉ cần vài câu là xong một đồ vật, một cây. Và miêu tả rất chung chung, không làm nổi bật được nét riêng của đồ vật đó, cây đó để phân biệt với đồ vật khác, cây khác.

- Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc, sự liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối tượng miêu tả, đôi khi còn không hợp lí.

- Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa một cách tùy tiện. VD: Quả bàng to như quả cam.

- Hình thức câu lặp lại nhiều lần. VD về tả con chó: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài. Lông thì đen ...

- Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong bài.

- Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt.

VD: Con cún mới dễ thương làm sao.

2.3.2. Phân loại lỗi trong bài văn miêu tả của học sinh lớp 4

- Lỗi chính tả: Học sinh sai phụ âm đầu l/n [lỗi chủ yếu]; s/x; d/r/gi;

- Lỗi dấu câu:

+ Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh yếu kém. Các em không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc trong một bài văn.

+ Sử dụng dấu câu sai. VD: Cây bàng cao thân cây. Xù xì.

- Lỗi diễn đạt:

+ Lỗi dùng từ không phù hợp. VD: Con mèo có bộ lông trắng tinh.

+ Câu không đủ thành phần. VD: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp.

+ Câu thừa thành phần [lặp lại thành phần một cách không cần thiết]

VD: Em rất yêu quý con mèo nhà em.

+ Câu có nội dung trùng lặp với câu khác có trong bài văn.

VD: Con gà trống dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức cho mọi người.

+ Câu sai nghĩa. VD : Con mèo nhà em nặng khoảng 2 yến.

+ Câu không rõ nghĩa. VD: Con mèo lông trắng, mắt nó em yêu chú lắm.

+ Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, các vế câu. VD: Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học giỏi.

+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau.

VD : Cây bàng to, mập mạp. Thân cây khẳng khiu.

+ Lỗi lạc chủ đề.

VD: Tả chiếc cặp: Ngăn ngoài của cặp em đựng bút. Chiếc bút màu đỏ rất đẹp.

Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh có thể mắc nhiều lỗi. Tùy theo mức độ, học sinh khá, giỏi có thể hạn chế hơn ở một số lỗi cơ bản.

Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là phải dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc, giàu hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.

2.4. Nguyên nhân

- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây cối, ... xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.

- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.

- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.

- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích lũy các từ ngữ gợi tả.

- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,... còn hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng, chưa khoa học.

- Chưa có thói quen sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi làm văn.

- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế; cảm xúc, tình cảm không tự nhiên, có sự gượng ép.

- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.

- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu thích môn học.

C hương II

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÍCH CỰC ĐỂ NÂNG CAO KĨ NĂNG

LÀM VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4

1. Giải pháp 1: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh

Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp [nói, viết].

Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu bài do chương trình quy định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều kĩ năng khác ngoài các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt, kĩ năng dùng từ đặt câu. Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn.

Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc tiểu học là mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong đó học văn miêu tả sẽ góp phần phát triển tư duy hình tượng cho các em nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa, khi miêu tả. Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em thành những “ thợ ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn.

Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng miêu tả. VD: Giáo viên cho các em quan sát bức tranh cây hoa phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi : Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn Xuân Diệu đã ví “ như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.”?

Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây hoa với muôn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.

Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng sống khác. Như dạy các em giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ cây... Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết.

Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài cần yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết Kiểm tra viết [sách Tiếng Việt 4 tập 2 – trang 92] có 4 đề bài gợi ý, giáo viên cần dựa vào đó ra đề nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài.

2. Giải pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của văn miêu tả

Từ điển Tiếng Việt do tác giả Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung dược cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.

Nhà văn Phạm Hổ viết: “Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dòng sông, người đọc còn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí còn có thể ngửi thấy mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc, nhưng đó mới chỉ là miêu tả bên ngoài, còn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ”.

[Viết văn miêu tả và văn kể chuyện]

Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học sinh yêu mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả.

Đối tượng của văn miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có miêu tả đồvật, cây cối, con vật.

* Tả đồ vật:

Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với các em. Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức, Chúng là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh.

Mỗi đồ vật đều có hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.

Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khimiêu tả phải nói tới công dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như vậy, đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn.

* Tả cây cối:

Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó có thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát, những cây có ích và gần gũi với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểmnày. Tả cây ăn quả cần tập trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của quả;tả cây lấy hoa cần tả hương sắc của hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá, …

Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ lược xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con người. Ta cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm yêu mến gắn bó của người tả với cây.

* Tả loài vật:

Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo, Mỗi con vật đều có đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái chung, và cả những nét tiêu biểu như màu sắc, vóc dáng, tính nết. Những con vật miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên bài văn phải thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm yêu mến của học sinh đối với chúng.

Ở Tiểu học, phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức lời nói, nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật như miêu tả. Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù quan sát, diễn đạt một cách có hình ảnh. Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý viết đoạn. Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn. Thông qua viết văn miêu tả học sinh có sự hiểu biết và tình cảm yêu mến, gắn bó với đồ vật, cây cỏ, thiên nhiên với con người và vạn vật xung quanh: từ một quyển sách, đến một cây hoa, một chú gà trống… Từ đây, tâm hồn, nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển.

Để dạy tốt các bài Tập làm văn miêu tả ở Tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri thức về miêu tả,… hiểu biết về thể loại văn học; cần hiểu rõ tính đặc thù của kĩ năng viết văn miêu tả. Để “vẽ được bằng lời” phải dạy tìm ý trong văn miêu tả bằng cách dạy quan sát và ghi chép các nhận xét. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều quan sát được một cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc…

Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả thể loại mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả, gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mô phỏng, tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hoá bằng hình ảnh … chứ không phải là kể lể.

Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ. Dù miêu tả đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi người.

Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn trăng bằng con mắt tinh tế, bằng tìnhyêu của tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng:

Trăng hồng như quả chín

Lửng lơ lên trước nhà …

… Trăng tròn như mắt cá

Chẳng bao giờ chớp mi…

… Trăng bay như quả bóng

Bạn nào đá lên trời …

Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng mùa thu văng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng, …

Cùng là vầng trăng, hay một sự vật nhưng mỗi người cảm nhận theo cách riêng của mình, mà những người khác không phát hiện được hoặc chưa phát hiện được.

Với mỗi học sinh, mỗi bài Tập làm văn là một một sản phẩm của từng cá nhân các em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt, … Giáo viên cần có thái độ tôn trọng sự độc lập suy nghĩ, sáng tạo nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.

Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của người viết, nhưng không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, sáo rỗng…

3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả.

* Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:

- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng tất cả giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,...;

- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ;

- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó;

- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung quanh;

- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.

Ví dụ khi dạy bài Luyện tập quan sát cây cối, nhờ áp dụng các điều trên học sinh có thể ghi lại được kết quả quan sát như sau:

* Lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả:

- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát;

- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép;

- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khác biệt của đối tượng để miêu tả chi tiết;

- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết với đối tượng.

* Sắp xếp ý, đoạn:

- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý[ theo một thứ tự nào đó: từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,...];

- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được bài văn, học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình Tập làm văn, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên[ không mở rộng].

Ví dụ khi dạy học sinh viết đoạn miêu tả đặc điểm bên ngoài chiếc cặp, giáo viên cần hướng dẫn học sinh:

+ Đề bài yêu cầu viết đoạn văn có nội dung gì? [ Tả đặc điểm, hình dáng bên ngoài chiếc cặp]

+ Hãy quan sát và ghi nhớ các đặc điểm bên ngoài của chiếc cặp

[ . Cặp còn mới hay đã cũ ?

. Cặp hình gì? Kích thước thế nào?

. Cặp màu gì? Làm bằng vải hay da?

. Quai cặp như thế nào?

. Mặt cặp, nắp cặp được trang trí thế nào?

. Khóa cặp nằm ở đâu, đóng mở cặp có âm thanh gì?...]

+ Viết đoạn văn miêu tả chiếc cặp đó. Chú ý viết đoạn văn có bố cục 3 phần:

. Câu mở đoạn: giới thiệu khái quát đặc điểm của chiếc cặp.

. Các câu thân đoạn: tả các chi tiết của chiếc cặp.

. Câu kết đoạn: nêu tác dụng của chiếc cặp hoặc cảm nhận của em về chiếc cặp đó.

Bài làm của học sinh lớp tôi:

4. Giải pháp 4: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả.

Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:

* Tích luỹ vốn từ:

- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..

- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như:

+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;

+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,...

+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,...

- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,. . để miêu tả cho sinh động.

* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:

Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn.

Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách:

- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng;

- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh;

- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng;

- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng;

- Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng;

- Dự đoán trựớc khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới;

- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay;

- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình.

5. Giải pháp 5. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn

- Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.

Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt[ dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,...]. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”.

Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận [xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,...] Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau:

- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngôn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết [miêu tả]. Việc phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.

- Nhóm bài tập sản sinh ngôn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn:

+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài [trực tiếp, gián tiếp], đoạn kết bài [mở rộng, không mở rộng]. Các đoạn phải có sự liền mạch về ý [không rời rạc, lộn xộn], các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính [có mở đầu, triển khai và kết thúc].

* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:

- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một sự kiện, hoàn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca dao.. . có liên quan đến yêu cầu của đề bài.

- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó, thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.

Ví dụ khi dạy bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật, học sinh có thể viết được đoạn văn với những từ ngữ gợi tả như sau:

- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết bài khô cứng, gò bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài không mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để khơi gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương laị; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đối tượng được tả.

VD: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường, em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em càng thấy như thế nào?...

Hoặc Tả cây ăn quả: Hình ảnh cây sai trĩu quả gợi cho em cảm nghĩ gì? Mỗi khi ăn quả em nhớ đến điều gì?

Và học sinh có thể viết:

+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần:

Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu tả với đối tượng miêu tả.

Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả hình ảnh một cách sinh động.

Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.

Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, đòi hỏi sự sáng tạo nhất, yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành trước đó để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất.

Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong suốt bài viết để bài văn không lan man.

Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay không, có đặc sắc không? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.

6. Giải pháp 6: Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn.

Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu... để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.

VD: Một học sinh tả chiếc bàn học:

Mỗi lúc học bài mệt em thường áp mặt lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài toán khó.

Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.

Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã giúp các em bằng cách như sau:

VD: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thẳm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.

- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.

- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.

- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm[ mà không phải một con].

- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh không có giá trị.

- Yêu cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện pháp nghệ thuật đó.

7. Giải pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.

Kĩ năng Tập làm văn trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. Tập làm văn có vai trò hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu loát, giàu hình ảnh.

Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả, chữa lời mà không chữa ý.

Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được như vậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?

* Chuẩn bị:

- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần khắc phục ngay cho các em.

- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗi diễn đạt,..Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.

- Thống kê và phân loại bài theo mức độ: tốt, khá, trung bình, chưa đạt yêu cầu. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh.

* Trong giờ trả bài:

Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài.

- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn [Linh hoạt về thời gian thực hiện các bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của học sinh].

- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu hình ảnh và sức gợi tả. Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên [thành tiếng và đọc thầm] một cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó.

Tuy nhiên, ta cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần kiên trì, bền bỉ, không thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của học sinh dù là nhỏ nhất.

Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao.

8. Giải pháp 8: Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ môi trường.

Dạy văn miêu tả đòi hỏi sự nhiệt huyết của giáo viên rất cao thì mới thấy được sự tiến bộ của học sinh, mới khơi gợi được ở các em niềm say mê, thích thú. Các em không chỉ viết tốt bài theo đề giáo viên yêu cầu mà còn có nhu cầu miêu tả những đối tượng yêu thích khác. Không chỉ trong tiết Tập làm văn mới dạy học sinh học viết văn, ta còn hướng dẫn các em trong các tiết học khác của môn Tiếng Việt như dạy các em cảm thụ trong giờ Tập đọc, dạy dùng từ, đặt câu trong tiết Luyện từ và câu, kích thích nhu cầu miêu tả một đồ vật nào đó trong khi tiếp xúc trò chuyện, hay các giờ ngoại khoá. Trong một lần hướng dẫn các em xếp hàng vào lớp, bất chợt tôi nhìn thấy cây bằng lăng giữa sân trường ở bông hoa đầu tiên. Tôi hỏi các em:

- Sân trường hôm nay có điều gì vừa mới, vừa lạ và rất đẹp? Các em quan sát nhanh và đều nhận thấy điều tôi muốn hỏi.

- Bông hoa ấy đẹp như thế nào và cho em cảm xúc gì? Các em rất hào hứng nói lên suy nghĩ của mình.

Tôi giáo dục ý thức bảo vệ cây xanh bằng cách hỏi các em như sau:

- Bông hoa đẹp thế kia, em có nên ngắt để tặng một người em yêu quý không? Vì sao?

Như vậy, trong một thời điểm ngắn, tôi đã đạt được nhiều mục đích: Các em xếp hàng nhanh mà không căng thẳng; kích thích các em phát triển khả năng quan sát, nhận xét tinh tế, khả năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt.. .Trong khoảng thời gian sau đó, tôi tin rằng nhiều em còn suy nghĩ và vận dụng vốn từ của mình để tả về bông hoa đó theo cảm nhận riêng.

Bên cạnh đó, cần dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “ Thực vật và động vật” của môn Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số loài thực vật, động vật, hiểu được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn miêu tả[ cây cối, con vật], các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm của mình một cách chân thật hơn.

9. Giải pháp 9: Khen ngợi, động viên kịp thời.

Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả giáo viên hãy dành cho các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti cố hữu.

  1. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
  1. KẾT LUẬN

Sau một thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp 4, qua kết quả kiểm tra cho thấy đề tài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những chuyển biến rõ rệt trong việc học kiểu bài miêu tả của chương trình tập làm văn lớp 4. Đồng thời, bản thân tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau:

- Trước hết người thầy phải luôn có lòng yêu nghề, yêu người, có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụng những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy.

- Dạy tập làm văn theo quan điểm tích hợp kiến thức, kĩ năng, giữa bài trước với bài sau, giữa các phân môn Tiếng việt với nhau, giữa lớp dưới với lớp trên.

- Nắm chắc mục tiêu môn học, bài học.

- Luôn tìm tòi, trau dồi kiến thức và trình độ hiểu biết của bản thân.

- Linh hoạt trong phương pháp giảng dạy.

- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

- Phối hợp với các hoạt động ngoài giờ để tích lũy vốn hiểu biết và bồi dưỡng tâm hồn giàu cảm xúc cho các em.

- Luôn kiểm tra, đánh giá mức độ và kịp thời ghi nhận sự tiến bộ của học sinh.

- Chuyển sự đánh giá kết quả học tập của giáo viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh.

II. KHUYẾN NGHỊ

Để nâng cao hiệu quả trong việc giúp học sinh lớp 4 làm tốt bài văn miêu tả, cần:

- Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Cần tổ chức các buổi phổ biến các chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm hay để giáo viên các trường tham khảo, học hỏi và linh hoạt trong vận dụng ở từng khối học.

- Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn các kĩ năng trong học tập, đặc biệt là kĩ năng làm văn miêu tả của các em ở nhà nhiều hơn nữa. Ngoài ra cần phải kiểm tra sát sao việc tự học, tự rèn ở nhà của các em. Luôn có thông tin với giáo viên về tình hình học tập của con để phối hợp rèn kĩ năng cho các em.

Chủ Đề