Chúng ta nên dụng thuốc khi nào

Thời điểm uống thuốc không đúng có thể phá hỏng dược tính hoặc làm thuốc không có hiệu quả. Dưới đây là lời khuyên của chuyên gia về thời điểm uống thuốc phù hợp nhất.

Trước khi ăn 

Thuốc bổ sung chất sắt: Một ly nước cam và một cái dạ dày trống rỗng cung cấp các điều kiện tốt nhất cho cơ thể hấp thu chất sắt. Vitamin C giúp tăng cường hấp thu khoáng chất  này, giúp bổ sung sắt hiệu quả. Sắt cũng có thể có các tương tác tiêu cực với các thuốc khác , cản trở sự hấp thu các chất bổ sung canxi , vitamin tổng hợp và thuốc kháng sinh nên uống vào lúc sáng sớm là phù hợp nhất

Thuốc điều chỉnh huyết áp: Các bệnh nhân có bệnh cao huyết áp thường được khuyến cáo nên uống thuốc vào buổi sáng sớm, đó là do huyết áp của chúng ta thường cao vào buổi sáng. 

Thuốc liên quan đến hoạt động của tuyến giáp: Các thuốc điều chỉnh chức năng tuyến giáp làm việc tốt nhất khi uống lúc dạ dày trống rỗng. 

Thuốc chữa chứng axit trào ngược và ợ nóng: Để các loại thuốc này phát huy tối đa hiệu quả và giúp dạ dày của bạn dễ chịu, các chuyên gia khuyên nên uống  thuốc trước  khi ăn từ 20-30 phút. Đây là khoảng thời gian cần thiết để các chất có trong thuốc phát huy tác dụng.

Thuốc chống loãng xương: Phần lớn các loại thuốc chống loãng xương được các bác sĩ khuyến khích uống vào buổi sáng, trước khi ăn. Các loại thuốc được bác sĩ kê toa uống 1 lần hàng tuần sẽ phát huy tối ưu khi bạn dùng trước khi ăn sáng.

Sau khi ăn 

Vitamin tổng hợp: Sau bữa ăn sáng là thời gian thích hợp để uống vitamin tổng hợp. Hàm lượng chất béo trong bữa ăn của bạn sẽ giúp các vitamin tan trong chất béo như vitamin  A, D, E và K  được hấp thụ tốt nhất. Vitamin tổng hợp cũng có thể giúp gia tăng năng lượng để bắt đầu một ngày mới.

Thuốc thông mũi và thuốc giảm dị ứng: Nghẹt mũi , và các triệu chứng dị ứng thông thường như ngứa mắt, nổi mẩn đỏ thường tồi tệ hơn vào buổi sáng. Do đó, các chuyên gia khuyên bạn nên dùng các thuốc chống nghẹt mũi và chữa dị ứng sau bữa ăn sáng để giúp làm thông xoang mũi và làm cho bạn cảm dễ thở hơn. Các bác sĩ cũng khuyến cáo tránh dùng các loại thuốc này vào buổi chiều hoặc buổi tối vì chúng có thể giữ cho bạn tỉnh táo, khiến cho bạn mất ngủ và trằn trọc cả đêm.

Chế phẩm sinh học Probiotics: Luôn luôn dùng các sản phẩm như sữa  chua hoặc các thực phẩm bổ sung  chế phẩm sinh học sau khi ăn. Vào lúc này, thức ăn có trong dạ dày của bạn sẽ góp phần tác động đến các lợi khuẩn tiêu hóa và khiến chúng làm việc hết khả năng. Nếu bạn dùng thực phẩm có chế phẩm sinh học khi dạ dày trống rỗng môi trường dạ dày với hàm lượng axit cao có thể đe dọa sự sống còn chúng.

Sau bữa ăn tối

Thuốc hạ cholesterol: Gan của bạn sản xuất phần lớn các cholesterol trong khi bạn ngủ vào ban đêm. Vì vậy, nếu dùng thuốc điều chỉnh cholesterol sau khi ăn tối sẽ giúp gan điều tiết và duy trì nồng độ cholesterol phù hợp trong máu.
Các nhà khoa học cho biết nhiều loại thuốc cần phải được uống hai lần một ngày, đặc biệt là khi bạn tự mua thuốc tại các tiệm thuốc tây. Liều thứ nhất có thể uống vào một thời điểm bất kỳ vào bữa sáng hoặc trưa nhưng liều thứ hai [còn được gọi là liều bổ sung] chỉ phát huy hiệu quả tốt nhất khi bạn uống sau khi ăn tối.

N.Diệp/D.Mail-Besthealth-Pre/ / Theo Pháp luật xã hội
[//afamily.vn]

Ngày đăng tin: 15-07-2021

Sử dụng thuốc an toàn và đúng cách

Trong cuộc đời, ai cũng hơn một lần dùng thuốc để chữa bệnh. Tuy nhiên, việc uống thuốc thật không đơn giản chút nào, bởi vì thuốc được bào chế từ hóa chất, dược liệu; việc uống thuốc đồng nghĩa với việc đưa hóa chất vào cơ thể và nếu sử dụng thuốc không đúng hướng dẫn của bác sĩ sẽ dẫn đến nhiều tác hại nguy hiểm cho sức khỏe.

Thuốc là chất hoặc hổn hợp các chất được bào chế thành nhiều dạng khác nhau dùng cho con người nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh,… Hay nói một cách dễ hiểu, thuốc là sản phẩm dùng để chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người. Tuy nhiên, thuốc là con dao hai lưỡi, vừa có tác dụng trị bệnh, vừa có thể gây ra những tác dụng phụ, tác dụng không mong muốn. Do đó, chúng ta phải dùng thuốc sao cho hợp lý, an toàn và đạt hiệu quả điều trị cao.

            Một toa thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả và có giá thành thấp phải là toa thuốc được bác sĩ kê toa cho từng đối tượng với từng bệnh cụ thể. Bởi vì, trong quá trình thăm khám bác sĩ biết được cơ địa của từng bệnh nhân [phụ nữ, trẻ em, người già, người có bệnh tim mạch, gan, thận,…] nên đã cân nhắc kỹ lưỡng khi kê toa thuốc sao cho chỉ số hiệu quả/rủi ro và hiệu quả/chi phí đạt cao nhất.

           Khi sử dụng thuốc theo toa của bác sĩ thì người sử dụng thuốc phải thực hiện theo đúng hướng dẫn đã ghi trong đơn thuốc. Sử dụng đúng liều và thời gian mà bác sĩ chỉ định, không dùng thuốc thông qua thông tin quảng cáo, thuốc không rõ nguồn gốc và tuyệt đối không nên sử dụng đơn thuốc của người khác để điều trị bệnh cho bản thân.

           Nếu uống thuốc không theo toa và không đúng sự hướng dẫn của bác sĩ sẽ dẫn đến tác hại là không khỏi bệnh do dùng không đủ liều, dùng không đủ thời gian, dùng không đúng cách. Hoặc thuốc giảm hoặc mất tác dụng, dẫn đến hiệu quả điều trị thấp; hay xảy ra tương tác thuốc gây ra tác dụng phụ hoặc nặng hơn là gây dị ứng thuốc, ngộ độc thuốc,... để lại những hậu quả nặng nề cho người bệnh.

           Bên cạnh đó, khi sử dụng thuốc chúng ta nên lưu ý:

-          Đối với thuốc sirô hay hỗn dịch thì cho trẻ uống đúng chỉ dẫn, sử dụng các dụng cụ có vạch đo liều lượng. Khi uống các thuốc này cần lắc kỹ trước khi dùng.

-          Đối với thuốc viên có thể uống theo các cách, có loại uống cả viên, loại thì phải hòa tan thuốc hoàn toàn vào trong nước chín và uống, cũng có loại cần nhai nát trước khi uống hoặc ngậm hay đặt dưới lưỡi cho tan.

-          Với loại thuốc viên nang, viên bao tan khi uống không nên mở viên nang, bẻ nhỏ hay cà nhuyển mà phải uống cả viên.

-          Khi dùng thuốc cần uống với nước đun sôi để nguội, không nên uống thuốc với nước khoáng, nước ngọt, nước trà, sữa hay rượu bia vì có thể làm tương tác thuốc, mất tác dụng của thuốc hoặc làm biến đổi một số thành phần có trong thuốc gây nguy hiểm đối với sức khỏe.

           Hiện nay, trên thế giới cũng như ở nước ta, việc sản xuất cũng như phân phối dược phẩm tăng quá lớn; thuốc được sản xuất với nhiều loại và mẫu mã phong phú; việc quảng cáo và tiếp thị thuốc làm cho người bệnh muốn được bác sĩ kê toa với nhiều loại thuốc;... tuy nhiên, việc uống thuốc không hợp lý, không đúng cách,… là con dao hai lưỡi có thể ảnh hưởng đến sức khỏe. Do đó, để đảm bảo việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và đúng cách, người bệnh không nên dùng thuốc qua thông tin quảng cáo mà cần tuân thủ tuyệt đối theo sự chỉ dẫn của bác sĩ khám bệnh.

Tin liên quan

Cũng giống như cuộc đời của một con người, thuốc cũng có quá trình sinh, lão, bệnh, tử khi chu du khắp cơ thể người và cuối cùng được đào thải sau khi hoàn thành sứ mạng của nó. Hãy xem hành trình của thuốc như thế nào trong cơ thể chúng ta.


Khi ta phải bắt buộc dùng thuốc như thuốc giảm đau, kháng sinh chống nhiễm khuẩn, thuốc để bổ sung sự thiếu hụt [như thiếu insulin gây bệnh đái tháo đường] hoặc làm giảm sự thừa thãi một chất nào đó [như mỡ máu bị tăng cao] nhằm điều chỉnh lại sư cân bằng của cơ thể, ta phải đưa thuốc vào trong cơ thể nhờ con đường cho thuốc. Có nhiều con đường cho thuốc dựa vào các dạng bào chế để con người sử dụng như: thuốc dạng uống hoặc ngậm [dưới lưỡi]; thuốc dạng tiêm chích [tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, tiêm động mạch…]; thuốc bôi ngoài da; thuốc bơm hít [khí dung] vào hầu họng; thuốc đạn đặt trực tràng; thuốc nhỏ mắt, thuốc nhỏ mũi...

Sau khi đưa thuốc vào cơ thể bằng các con đường đã nêu, thuốc sẽ di chuyển vào trong máu để đến các cơ quan và các mô trong cơ thể, đặc biệt tiến thẳng tới phần cơ thể bị bệnh. Từ đó, thuốc sẽ gây ra tác dụng gọi là hiệu ứng dược lý như phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể. Cuối cùng cơ thể chúng ta sẽ loại bỏ thuốc và các chất chuyển hóa của nó ra ngoài cơ thể.



Cũng giống đời người có sinh, bệnh, lão, tử, số phận thuốc trong cơ thể có các giai đoạn: hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ.
Thuốc được hấp thu như thế nào?

Thuốc có thể được hấp thu trực tiếp vào máu khi dùng đường tiêm chích. Tiêm tĩnh mạch [viết tắt IV] vì đưa thuốc thẳng vào trong mạch máu nên cho tác dụng nhanh nhất, nhanh hơn tiêm bắp [IM] và tiêm dưới da [SC]. Thuốc tiêm, đặc biệt tiêm tĩnh mạch, có tác dụng nhanh và tiếp thu trọn vẹn nên nếu có sự nhầm lẫn thì thật tai hại, thậm chí nguy đến tính mạng nếu dược chất có nhiều độc tính. Trong trường hợp cấp cứu hay bệnh nhân hôn mê không thể dùng đường uống thì mới dùng đường tiêm.

Thuốc dùng phổ biến là thuốc uống. Tùy dạng thuốc uống [viên nén trần, viên nén bao, viên nang, thuốc uống lỏng như sirô, nhũ dịch, hỗn dịch…] mà sự hấp thu thuốc vào cơ thể nhanh chậm khác nhau. Khi thuốc uống vào miệng, đi qua thực quản và đi vào dạ dày, một số sẽ bắt đầu hòa tan trong khi dạng thuốc lỏng thì đã hòa tan sẵn. Một vài loại thuốc sẽ được hấp thụ tại dạ dày, số khác sẽ di chuyển vào ruột non. Điều này tùy thuộc vào lớp áo bao của viên thuốc. Nhiều loại thuốc có lớp áo bọc đặc biệt nhằm bảo vệ viên thuốc tránh bị hủy hoại bởi axít dạ dày hoặc bảo vệ niêm mạc dạ dày tránh không cho thuốc tác động trực tiếp gây hại dạ dày [viên nén bao tan ở ruột chứ không tan ở dạ dày]. Thuốc viên nang dạng con nhộng có khi cũng có cách thức bảo vệ dạng này, do vậy người bệnh không nên mở viên nang để lấy thuốc bên trong uống. Thuốc được xử lý bởi dạ dày có thể tan hoàn toàn hoặc không tan sẽ được chuyển vào ruột non. Từ đây, thuốc được hấp thụ vào niêm mạc của ruột non ở ba nơi: tá tràng, hỗng tràng hoặc hồi tràng. Thuốc được hấp thu từ ruột non sẽ di chuyển vào trong máu.

Nếu uống thuốc cùng với bữa ăn, có sự tương tác thuốc uống với thức ăn có thể làm thuốc không hoặc chậm hấp thu. Vì vậy, cần lưu ý có 4 loại thuốc uống: loại nên uống vào lúc bụng no, loại uống vào lúc bụng đói, loại nên uống cùng với bữa ăn, và loại uống tùy thuộc vào tính chất của từng loại thuốc.

Thuốc được phân bố trong hệ tuần hoàn như thế nào?

Thuốc vào được trong máu sẽ theo dòng máu nhờ nhịp đập của tim để luân chuyển khắp cơ thể, giai đoạn này gọi là sự phân bố của thuốc. Khi phân bố trong máu đi khắp nơi, thuốc muốn gây ra tác dụng dược lý phải được đưa đến cơ quan đích, nơi đáp ứng với tác dụng dược lý đó. Sự phân bố của thuốc bị ảnh hưởng bởi chính đặc tính của thuốc [như kích thước phân tử, tính thân mỡ hay tính thân nước của thuốc…] và phụ thuộc vào tính chất của cơ quan đích mà thuốc sẽ di chuyển tới, như có thuốc qua được hàng rào máu não, có thuốc thấm vào trong mô xương…

Một số cơ quan đích rất khó cho thuốc thâm nhập, bao gồm dịch não tuỷ, xương, mắt. Một số thuốc có khả năng phân bố vào các cơ quan đích này tốt hơn các thuốc khác. Người ta phải chọn lựa các thuốc có khả năng phân bố tốt, ví dụ, bác sĩ cho dùng kháng sinh là các cephalosporin thế hệ 3 [cefotaxim hay ceftriaxon] phân bố tốt vào dịch não tủy khi bệnh nhân bị nhiễm khuẩn ở vùng não tủy [như viêm màng não].
Rất cần biết thuốc có được phân bố vào nhau thai hoặc sữa mẹ hay không và với lượng bao nhiêu, vì cần quan tâm đến tác dụng có thể có của thuốc trên bào thai và đứa trẻ đang bú mẹ có thể gây hại.

Thuốc được chuyển hóa trong cơ thể như thế nào?

Khi thuốc theo máu đi khắp nơi và đến gan thì được chuyển hóa. Gan là cơ quan chính cho việc chuyển hóa thuốc. Rất nhiều thuốc được chuyển hóa tại gan nhờ các enzym [men] chuyển hóa thuốc làm nhiệm vụ chuyển hóa.

Gan luôn xem thuốc là chất độc và chuyển hóa thuốc thành các chất chuyển hóa không còn độc, dễ tan trong nước để thận loại chất đó qua nước tiểu ra khỏi cơ thể.


Đôi khi gan chuyển hóa thuốc thành chất chuyển hóa có độc tính, ví dụ paracetamol. Paracetamol là thuốc giảm đau hạ sốt, được chuyển hóa chủ yếu ở gan. Chuyển hóa paracetamol được xúc tác bởi enzym chuyển hóa thuốc gọi là cytochrom P450, hình thành chất chuyển hóa trung gian là N-acetyl benzoquinoneimin. Khi sử dụng với liều thông thường, chất này sẽ nhanh chóng được khử độc tính bởi glutathion [do gan tiết ra] và thải qua nước tiểu. Tuy nhiên, khi sử dụng liều quá cao, không đủ glutathion khử độc tính, lượng N-acetyl benzoquinoneimin tạo thành tăng lên, thâm nhập vào tế bào gan, gây hoại tử gan. Chính vì vậy, tuyệt đối không được dùng quá liều paracetamol để trị cảm sốt.
Gan thải trừ thuốc bên trong cơ thể bằng cách chuyển hóa, thận thải trừ thuốc ra khỏi cơ thể bằng cách bài tiết qua nước tiểu

Sau khi chuyển hóa ở gan, ngoài thải trừ qua đường tiểu, các chất chuyển hóa của thuốc còn được thải trừ qua mật để theo phân ra ngoài. Có nhiều thuốc còn được chuyển hóa thêm ở ruột và sẽ được tái hấp thu vào máu để thải trừ qua thận.

Enzym chuyển hóa một thuốc ở gan có thể bị ức chế [làm cho mất tác dụng] hoặc cảm ứng [làm cho tăng tác dụng] bởi thuốc dùng chung. Vì vậy, người ta rất lưu ý vấn đề tương tác thuốc ở giai đoạn chuyển hóa thuốc. Như kháng sinh erythromycin ức chế enzym chuyển hóa thuốc trị hen suyễn theophylin dẫn đến nồng độ theophylin cao hơn trong máu. Điều này có nghĩa người bệnh sẽ bị tăng độc tính của theophylin nếu dùng chung với erythromycin. Ngược lại, kháng sinh rifampicin gây cảm ứng enzym chuyển hoá thuốc “tránh thai đường uống” và dẫn tới giảm nồng độ thuốc tránh thai, đôi khi làm mất tác dụng tránh thai nếu hai thuốc này dùng chung. Các thuốc vừa kể phải uống cách xa trong khoảng thời gian cần thiết.

Khi suy giảm chức năng gan, chuyển hóa các thuốc bị suy giảm. Điều này có thể dẫn đến sự gia tăng nồng độ thuốc trong máu gây độc. Vì vậy, trong trường hợp suy giảm chức năng gan thầy thuốc tránh dùng các thuốc chuyển hóa qua gan hay phải hiệu chỉnh liều thuốc dùng thấp hơn bình thường.

Thuốc được thải trừ ra khỏi cơ thể như thế nào?

Các cơ quan chính liên quan đến việc loại bỏ thuốc là gan và thận. Về cơ bản, những cơ quan này sẽ sàng lọc ra các thuốc được xem là độc hại. Gan sẽ chuyển hóa tức phá vỡ thuốc thông qua một chuỗi các phản ứng hóa học và sinh học phức tạp tạo thành các chất chuyển hóa. Những chất chuyển hóa có thể độc hại cần phế thải này được trữ trong gan cho đến khi chúng sẵn sàng được chuyển đến thận. Trong thận, các chất chuyển hóa lại được xử lý kỹ hơn và loại bỏ khỏi cơ thể thông qua tiểu tiện.

Có thể nói, một chức năng của gan và thận là thải trừ thuốc. Gan thải trừ thuốc bên trong cơ thể bằng cách chuyển hóa, còn thận thải trừ thuốc ra khỏi cơ thể bằng cách bài tiết qua nước tiểu. Gan thận là cơ quan thải trừ thuốc chính của cơ thể. Nhiều thuốc còn được thải trừ qua đường ruột [qua phân], da [qua mồ hôi], phổi [hơi thở], sữa, tóc. Người ta đã phát hiện độc chất asen [thạch tín] trong tóc của Napoléon sau 150 năm chôn ông để kết luận là ông bị đầu độc!

Khi chức năng cơ quan thải trừ [gan thận] bị suy giảm thì thuốc bị tích lũy lâu trong cơ thể và nguy cơ bị độc tính lớn hơn. Cũng giống như suy gan, trong trường hợp suy thận rất cần giảm liều thuốc dùng.

Tóm lại, khi thuốc vào trong cơ thể, nó có cuộc hành trình bắt đầu từ “sinh” là bắt đầu hấp thu vào cơ thể, “lão, bệnh” là phân bố, chuyển hóa, và cuối cùng “tử” là sự thải trừ nó ra khỏi cơ thể. Điều quan trọng là ta dùng thuốc như thế nào giúp hành trình của thuốc suôn sẻ an toàn, không gây ra cái gọi là tai biến do thuốc xảy ra cho ta.

Theo SKĐS online.

Video liên quan

Chủ Đề