Công danh đã được hợp về nhàn nội dung chính

Nguyễn Trãi [1380-1442] là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời Đại việt trong thế kỷ 15. “Quốc âm thi tập” và “Ức trai thi tập” là hai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Riêng “Quốc âm thi tập” – là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất mà ta còn giữ được gồm 254 bài – ó như ánh hào quang củ ngôi sao Khuê lấp lánh xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.“Quốc âm thi tập” nhìn chung không có tên bải riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giớ.v.v… Đây là bài thơ số 24 trong chùm thơ “Thuật hứng” 25 bài.“Hợp” nghĩa là “nên”, là “đáng”; “âu chi” nghĩa là “lo chi” Nguyễn Trãi là cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Thái học sinh [Tiến sĩ]. Ông là mưu sĩ của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Ông là người anh hùng dân tộc văn võ song toàn, đúng là “công danh đã được”. Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép. “Lưng khôn uốn, lộc nên từ”, ông đã vứt bỏ mọi công danh, tự dăn lòng mình: “hợp về nhàn”, nên về Côn Sơn ở ẩn, sống cuộc đời thanh nhàn chan hoà với tạo vật.Câu thơ thứ hai nói lên thái độ, cách ứng xử của Nguyễn Trãi: chẳng quan lâm gì trước mọi chuyện thị phi “lành dữ”, khen chê nữa. Mọi sự đánh giá sẽ do lịch sử, cần chi phải mệt lòng trăn trở. Đó là thái độ đúng, là khí tiết của kẻ sĩ khi đã thoát vòng danh lợi, lui về suối rừng ở ẩn. Trong bài thơ “Cuối xuân tức sự”, ông có viết:

Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,
Khách tục không ai bên mảng gần.
Một giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh một cuộc đời ung dung, tự tại. Hai câu trong phần “thực” nói lên nhịp điệu cuộc sống của Ức Trai khi đã “về nhàn”:
Ao cạn vớt bèo cấy muống.
Đìa thanh phát cỏ ương sen.
Mỗi câu thơ chỉ có 6 từ [lục ngôn]. Cấu trúc câu thơ cân xứng cho thấy phép đối được vận dụng thần tình. “Ao cạn” với “đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” đối nhau chặt chẽ làm hiện len một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Cuộc sống chẳng có sơn hào hải vị, chỉ có “muống”, có “sen” rất bình dị mà thanh cao. Lúc ở triều đình, chức trọng quyền cao, trước sau Nguyễn Trãi vẫn chỉ là một ông quan thanh liêm:
Một tấm lòng son ngời cửa luyệnMười năm thanh chức ngọc hồ băng.

[Mạn hứng – 2]

Nhiều bài thơ Nguyễn Trãi nói về cuộc sống đạm bạc, giản dị của minh: “Đọc sách mười năm mà kiết xác – Ăn tràu rau muống chẳng chiên ngồi” [Gửi bạn]. Cuộc đời một ông quan, một kẻ sĩ mà chẳng khác nào cuộc đời người dân quê: “Cơm ăn chẳng quản dưa muối – áo mặc nài chi gấm thêu …” [Thuật hứng – 22].Hai câu tiếp theo trong phần “luận”, ý thơ được mở rộng làm rõ thêm vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai. Thi liệu mang đậm màu sắc ước lệ cổ điển đầy thi vị:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
Lấy “phong, nguyệt” làm bầu bạn, lấy “yên, hà” làm nguồn vui mấy ai trong thiên hạ có đời sống tinh thần phong phú và thanh cao như Ức Trai? Phép đối và biện pháp tu từ thậm xưng diễn tả chiều sâu một tâm hồn, cái cao sang của một nếp sống đẹp. Cả ba tháng mùa thu với Ức Trai là một cái kho chứa đầy gió trăng đến tận nóc. Con thuyền của thi nhân suốt đêm ngày chỉ chở khó ráng thế mà cũng làm oằn đi những chiếc thang thuyền. Phong nguyệt, yên hà là những thứ chỉ có thể nhìn thấy, cảm thấy nhưng qua các hình ảnh: “kho thu”, “thuyền chở” và các từ ngữ: “đầy”, “nặng” – tác giả đã “khối lượng hoá” các hiện tượng thiên nhiên ấy một cách tài tình. Chữ dùng chính xác, chọn lọc và hình tượng. Chỉ một chữ “đầy” trong thơ Ức trai mà ta liên tưởng đến bao câu thơ đẹp khác: “Gió, trăng chứa một thuyền đầy - của kho vô hạn biết ngày nào vơi “Nguyễn Công Trứ; “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” [Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền] - Hồ Chí Minh, v.v…Có thể nói, hai câu trong phân luận là hai câu thơ hay nhất, nó cho thấy một hồn thơ thanh cao, một cuộc sống tinh thần giàu đẹp, ung dung, hồn nhiên, tự tại của ức Trai chan hoà với thiên nhiên, tạo vật.Hai câu kết là lời tự bạch: Nguyễn Trãi bộc lộ tấc lòng mình, tấm lòng mình:
Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
“Bui” là tiếng cổ, nghĩa là “chỉ”; “bui có” là chỉ có. Một cách nói khiêm tốn mà khẳng định, biểu lộ niềm tự hào về lòng trung hiếu của mình đối với nước, với vua và với cha mẹ. Trung hiếu là đạo làm tôi, đạo làm con. Tấm lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi vô cùng bền vững, son sắt, thuỷ chung, dù có mài đi cũng chẳng khuyết, có nhuộm đi cũng chẳng đen. Câu thơ lục ngôn khép lại bài thơ vang lên đĩnh đạc như một lời thề được khắc sâu bằng hai vế tiểu đối:
Mài chăng khuyết // nhuộm chăng đen
Cuộc đời của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, thuỷ chung, sáng ngời trung hiếu. Trong thơ văn của Nguyễn Trãi, hai tiếng “trung hiếu” và “ưu ái” [ưu quốc, ái dân: lo nước, yêu dân] như một lời nguyền vang vọng cùng sông núi, trường tồn cùng năm tháng. Các thế hệ con cháu, mỗi lần đọc lên biết bao xúc động tự hào:
Bui có một niềm trung hiếu cũ,Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh”.[Bảo kính cảnh giới – 1]Bui một tấc lòng ưu ái cũ,Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

[Thuật hứng – 5]

Niềm trung hiếu, lòng ưu ái của Ức Trai vô cùng mãnh liệt như nước thuỷ triều cuồn cuộn chảy suốt đêm ngày ngoài biển đông.

“Thuật hứng” có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú riêng của mình. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập” cho biết chùm thơ “Thuật hứng” được viết ra trong thời kỳ Ức Trai về sống ở Côn Sơn. Bài thơ “Thuật hứng – 24” này được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú; các câu 3, 4, 8 chỉ có 6 từ. Giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng điệu tâm tình, cởi mở. Các thi liệu: ao, bèo, muống, đĩa, cỏ, sen, kho, thu, phong, nguyệt, thuyền, yên, hà - tạo nên cốt cách bài thơ vừa dân dã, mộc mạc vừa cổ điển thanh cao. “Thuật hứng” đã thể hiện một cách đẹp đẽ sâu sắc những tư tưởng tình cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, thích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thuỷ chung. Đọc bài thơ, ta vô cùng kính yêu và cảm phục Nguyễn Trãi - một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ngợi ca: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.

Xin chào các em! Và hôm nay, Dapandethi.vn xin được giới thiệu tới các em một bộ đề thi và đáp án môn Văn chi tiết kì thi học kì 1 lớp 10 trường THPT chuyên Lương Thế Vinh năm học 2017-2018 hiện nay. Đây là một trong những bộ đề thi học kì 1 lớp 10 môn Văn có đáp án dành cho các em tham khảo. Và dưới đây là nội dung và đáp án đề thi học kì 1 lớp 10 môn Văn chi tiết mời các bạn tham khảo.

Đề thi học kì 1 lớp 10 môn Văn – THPT chuyên Lương Thế Vinh

I. Đọc hiểu [3.0 điểm]

Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi:

Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then. Bui* có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng** khuyết, nhuộm chăng đen. [Thuật hứng 24 – Nguyễn Trãi, Trích Luận đề về Nguyễn Trãi,

NXB Thanh Niên, 2003, tr.87]

I. Đọc hiểu 

Câu 1:

*Phương pháp: Căn cứ vào các thể thơ đã được học.

*Cách giải:

Thể thơ: thất ngôn xen lục ngôn

Lưu ý: Nếu HS chỉ nhận ra được thể thất ngôn bát cú thì đạt 0.25 điểm

Câu 2:

*Phương pháp: Căn cứ vào các biện pháp nghệ thuật đã được học.

*Cách giải:

Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong cặp câu luận: đối, phóng đại…

Câu 3:

*Phương pháp: Phân tích, tổng hợp.

*Cách giải:

Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi thể hiện qua cặp câu kết: tấm lòng trung hiếu/ lòng yêu nước, thương dân/ kiên trì với lí tưởng yêu nước thương dân…

Câu 4:

*Phương pháp: Tái hiện kiến thức đã học, phân tích, tổng hợp.

*Cách giải:

- Hai câu thơ đầu gợi nhớ bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Điểm giống nhau giữa 2 bài thơ: đều thể hiện tâm hồn thanh cao, lối sống thanh nhàn, hòa hợp với thiên nhiên,…

Lưu ý: HS có thể phát hiện nét giống nhau trên phương diện nghệ thuật, chỉ cần hợp lí có thể đạt 0.5 điểm

II. Làm văn 

Câu 1:

*Phương pháp: Sử dụng các thao tác lập luận để tạo lập một đoạn văn nghị luận [bàn luận, so sánh, tổng hợp,…]

*Cách giải:

v  Yêu cầu về kĩ năng: biết cách viết đoạn văn; đoạn văn hoàn chỉnh, chặt chẽ; không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả; đảm bảo dung lượng như yêu cầu đề.

v  Yêu cầu về kiến thức:

- Trình bày đúng vấn đề: bàn về một phẩm chất quan trọng của con người được gợi ra từ bài thơ Thuật hứng số 24: lòng yêu nước, nhân cách thanh cao, kiên trì với lí tưởng…

- Lí giải ngắn gọn vì sao đó là một phẩm chất quan trọng không thể thiếu của con người.

- Rút ra bài học, ý thức trách nhiệm của bản thân.

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo lựa chọn của bản thân, cần có nội dung hợp lí, thuyết phục.

Câu 2:

*Phương pháp:

- Phân tích [Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng].

- Sử dụng các thao tác lập luận [phân tích, tổng hợp, bàn luận,…] để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.

*Cách giải:

a.Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

b.Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:

Hào khí Đông A trong tác phẩm Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão.

c.Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.

- Giới thiệu tác giả Phạm Ngũ Lão và tác phẩm Tỏ lòng.

- Hoàn cảnh sáng tác: Tương truyền bài thơ được sáng tác trước cuộc kháng chiến chông quân Mông Nguyên lần 2, lúc đó Phạm Ngũ Lão cùng một số tướng lĩnh được cử đi trấn giữ biên cương.

- Giải thích hào khí Đông A: Theo chữ Hán thì chữ Đông và chữ A ghép là chữ Trần; hào khí Đông A là hào khí thời Trần – khí thế mạnh mẽ, hùng dũng trong công cuộc chống giặc bảo vệ đất nước.

- Cảm nhận hào khí Đông A thể hiện trong bài thơ Tỏ lòng:

+ Hình ảnh chiến sĩ nhà Trần hiên ngang, uy vũ.

+ Niềm tự hào trước sức mạnh và khí thế hào hùng của quân đội nhà Trần.

+ Khát vọng lập nhiều chiến công, cống hiến nhiều hơn cho đất nước.

+ Nghệ thuật: Giọng thơ hào hùng, mang cảm hứng tự hào, ngợi ca; bút pháp phóng đại; điển tích; đặt con người trong tương quan với vũ trụ…

-Đánh giá:

Hào khí Đông A làm nên chất anh hùng ca cho bài thơ Tỏ lòng. Phạm Ngũ Lão thể hiện rõ tấm lòng yêu nước và khát vọng chống giặc cứu nước.

d.Sáng tạo

- Ý mới mẻ, sâu sắc, biết liên hệ, so sánh

e.Diễn đạt

- Chính tả, dùng từ, đặt câu

Video liên quan

Chủ Đề