chuyên gia về một lĩnh vực nhất định. Hoạt động học tập của họ một mặt phải kế
thừa một cách có hệ thống những thành tựu đã có, mặt khác phải tiếp cận với
những thành tựu của khoa học mới có tính cập nhật, thời sự. Và sau đây là một
số đặc điểm học tập của sinh viên:
- Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa
học, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất cuả người
chuyên gia tương lai. Hoạt động học tập củ họ vừa gắn kết chặt chẽ với nghiên
cứu khoa học, vừa không tách rời hoạt động nghề nghiệp của người chuyên gia.
- Hoạt động học tập của người sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có
mục đích, nội dung, chương trình, phương tháp đào tạo theo thời gian chặt chẽ
nhưng đồng thời không quá bị khép kín, quá câu nệ mà có tính chất mở rộng khả
năng theo năng lực, sở trường để người học có thể phát huy được tối đa năng lực
nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực.
- Phương tiện học tập của sinh viên được mở rộng và phong phú với các
thư viện, phòng đọc, phòng thực nghiệm Với những thiết bị khoa học cần
thiết của ngành đào tạo. Do đó phạm vi hoạt động học tập của sinh viên đa dạng
vừa rèn luyện kỹ năng vừa rèn luyện kỹ xảo nghề nghiệp, vừa phát huy việc học
nghề một cách rõ rệt.
- Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Hoạt động tư duy của sinh viên trong quá trình học tập chủ yếu theo hướng phân
tích, diễn giải, chứng minh các định đề khoa học.
- Điều rất quan trọng là sinh viên phải tìm ra phương pháp học tập mới.
Phương pháp đó phải phù hợp với chuyên ngành mà họ theo đuổi. Không tìm ra
phương pháp học tập khoa học, sinh viên không thể có được kết quả học tập tốt
vì khối lượng tri thức, kỹ năng ,kỹ xảo họ phải lĩnh hội trong những năm học ở
cao đẳng, đại học là rất lớn.
Tóm lại: Hoạt động học tập của sinh viên được đặc trưng bởi sự căng
thẳng trí tuệ, phối hợp nhiều thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
29
trừu tượng hoá, khái quát hoá. Đó là hoạt động trí tuệ có cường độ cao và có
tính lựa chọn rõ rệt.
+ Một số đặc điểm trong hoạt động học tập của sinh viên Trường đại
học Dân lập Đông Đô.
Ngoài những đặc điểm giống như đặc điểm học tập của sinh viện nói
chung thì họat động học tập của sinh viên Đại học Dân lập Đông Đô có một số
đặc điểm đặc trưng sau:
- Hàng năm điểm đầu vào các trường Đại học dân lập nói chung, Trường
Đại học Dân lập Đông Đô nói riêng thường thấp hơn so với các trường đại học
quốc lập có cùng nhóm ngành. Điều này cũng phần nào nói lên hạn chế trong
trình độ nhận thức của các em.
- Hơn nữa, đối với các Trường đại học dân lập một loại hình giáo dục
mới ra đời, bề dày thành tích chưa cao, kinh nghiệm chưa nhiều..Chính vì thế dư
luận xã hội chưa thực sự ủng hộ. Bởi vậy, sinh viên vào học còn có tâm trạng
chưa an tâm, một só em vẫn còn tiếp tục ôn thi vào các trường đại học khác, cho
nên các em còn sao nhãng trong các giờ học trên lớp, số buổi nghỉ học nhiều
hơn vào giai đoạn gần kỳ thi đại học. Việc thu hút các em vào bài giảng trong
khi tâm trạng của các em như vậy quả là một điều không dễ.
- Tâm lý của sinh viên học ở các Trường đại học dân lập thường cho rằng
mình phải đóng nhiều tiền để học cho nên mình có quyền đòi hỏi, mà các em ít
nghĩ rằng những đòi hỏi của mình có chính đáng hay không. Chính vì thế, giáo
viên trong các giờ giảng rất vất vả trong khâu tổ chức lớp [do ý thức học tập của
sinh viên chưa cao].
- Không phải tất cả sinh viên trong trường đại học Dân lập Đông Đô đều
học môn tâm lý học đại cương, chỉ có một số khoa [Du lịch, Quản trị kinh
doanh, Thông tin học, ngoại ngữ, Quan hệ quốc tế] học môn này. Những Khoa
còn lại [Công nghệ thông tin, Công nghệ môi trường, Điện tử viễn thông, Kiến
trúc, Xây dựng] không học môn tâm lý học đại cương. Hơn nữa, môn tâm lý học
đại cương không phải là môn chuyên ngành của các em. Chính vì thế sinh viên
30
có tâm lý chung là học cho đủ điều kiện để còn học tiếp những năm sau và học
để thi cho xong
Tất cả các điểm khác biệt trên đây là một thách thức không nhỏ đối với
các giáo viên, nhất là với những người kinh nghiệm còn ít. Chính vì vậy trong
quá trình giảng daỵ, các thầy, cô giáo bên cạnh việc chú trọng các nguyên tắc
dạy học khác, giáo viên đã rất chú trọng nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức. Làm
thế nào để vừa đáp ứng yêu cầu truyền đạt đủ nội dung tri thức theo chương
trình, kế hoạch giảng dạy, nhưng các em phải hiểu bài, từ đó các em sẽ chấp
hành kỷ luật học tập tốt hơn, trên cơ sở đó giáo viên mới có thể phát huy tính
tích cực, độc lập của sinh viên.
2. Những nhận xét bước đầu về dạy và học môn tâm lý học đại cương ở trường
đại học Dân lập Đông Đô
- Về cách soạn giáo án: Giảng viên thường không phân biệt đề cương bài
giảng và giáo án, coi giáo án chính là đề cương bài giảng được tóm tắt lại. Thực
chất thì, đề cương bài giảng là văn bản chủ yếu đề cập đến nội dung những tri
thức [lôgíc khoa học của tri thức] sẽ lần lượt trình bày trong một đơn vị thời
gian nhất định. Trong khi đó giáo án lên lớp giảng dạy tâm lý học đại cương của
giáo viên là văn bản trong đó ghi rõ kế hoạch chi tiết được giảng viên sử dụng
để tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh hành động học của sinh viên giúp
họ tự giành lấy tri thức mà giáo viên muốn truyền thụ cho họ trong một thời gian
nhất định. Nói cách khác, giáo án lên lớp là một văn bản trình bày lôgíc sư phạm
để chuyển tải lôgíc khoa học của một đơn vị tri thức nhất định nào đó đến người
học, biến chúng thành tài sản riêng của người học.
- Về phương pháp giảng dạy các tri thức lý luận: Nhìn chung, việc giảng
dạy môn tâm lý học đại cương ở Trường đại học Dân lập Đông Đô cũng giống
như ở đa số các Trường đại học khác, về cơ bản vẫn sử dụng phương pháp thông
báo tái hiện truyền thống ở dạng nguyên mẫu của nó. Trong bài giảng của mình,
những giảng viên này vẫn lấy việc truyền thụ tri thức một chiều theo kiểu áp đặt
là chủ yếu. Họ biến sinh viên thành cái máy chỉ biết nghe và ghi những chân lý
đã được chế biến sẵn một cách thụ động, để tái hiện lại trong các bài kiểm tra và
31
thi một cách máy móc. Cách dạy và học tâm lý học đại cương như vậy làm cho
việc tiếp thu tri thức tâm lý học của sinh viên hoàn toàn mang tính hình thức
không có khả năng vận dụng một cách sinh động vào việc học tập có kết quả các
môn học khác và vào việc giải quyết thành công những tình huống phức tạp
trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ mà hàng ngày sinh viên tham gia vào như
một thành viên. Chính vì vậy, những háo hức ban đầu đối với việc học môn tâm
lý học đại cương đã có ở đại đa số sinh viên dần dần bị biến mất, thay vào đó là
sự chán nản, là ý thức nghĩa vụ của một sinh viên phải tham gia đủ các bài giảng
ở trên lớp. Hiệu quả dạy học tâm lý học đại cương do đó trở nên rất hạn hẹp.
- Về việc tổ chức các hình thức thực hành: Trong phân phối chương trình
môn tâm lý học đại cương chỉ có 45 tiết lý thuyết, không có tiết thực hành, bài
tập, ôn tập. Cho nên giáo viên ít có điều kiện hướng dẫn sinh viên vận dụng tri
thức đã học vào giả quyết các bài tập thực hành, các buổi thảo luận tâm lý học.
Tổ bộ môn cũng chưa một lần tổ chức hội thảo về việc vận dụng tri thức tâm lý
học đại cương vào việc học tập các môn học khác và vào việc tổ chức cuộc
sống tập thể của sinh viên.
- Về hình thức kiểm tra, đánh giá tri thức: thông thường các đề thi hết
môn tâm lý học đại cương, giáo viên thường nêu các câu hỏi nhằm kiểm tra trí
nhớ của sinh viên là chính, ít kiểm tra, đánh giá khả năng vận dụng tri thức của
sinh viên vào giả quyết các bài tập thực hành tâm lý học và sử lý các tình huống
trong cuộc sống. Điều này tạo cho sinh viên một thói quen học thuộc lòng những
điều thầy cho ghi mà không sáng tạo.
Từ những nhận xét trên đây, chúng tôi đã đề xuất thử nghiệm tác động sư
phạm với giả thuyết của đề tài: nếu trong quá trình giảng dạy giảng viên biết tổ
chức hành động học của sinh viên một cách hợp lý khi giảng bài bằng một hệ
thống câu hỏi, qua đó sinh viên có thể tự khám phá ra bản chất của tri thức đang
tiếp thu, thì sẽ kích thích được thái độ tích cực của các em đối với việc học môn
tâm lý học đại cương.
32