Điểm khác biệt của các định chế tài chính phi ngân hàng so với ngân hàng

CÁC ĐỊNH CHẾ tài CHÍNH PHI NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [192.33 KB, 24 trang ]

1
CÁC ĐNH CH TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG
7.1 Bản chất định chế tài chính phi ngân hàng
Các định chế tài chính phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một
số hoạt động ngân hàng bán lẻ [Retail banking] và coi đó là nội dung kinh doanh thường
xuyên nhưng không được nhận tiền ký thác không thời hạn [Demand deposit] và không
làm dịch vụ thanh toán.
Ở các nước kinh tế thị trường phát triển, người ta phân biệt nghiệp vụ ngân hàng bán
buôn [Whole sale banking] và nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ [Retail banking]. Nghiệp vụ
ngân hàng bán lẻ chủ yếu liên quan đến khu vực tiêu dùng trong nước và các doanh
nghiệp nhỏ, thu hút số tiền tạm thời nhàn rỗi của cá nhân, doanh nghiệp, ngân sách địa
phương trong một khu vực, và cho vay những đối tượng ấy cũng trong cùng khu vực.
Nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ bao gồm việc nhận tiền ký thác với bất kỳ qui mô nào từ
công chúng và dùng số tiền đó để đáp ứng nhu cầu xin vay của công chúng. Các tổ chức
tài chính thực hiện nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ thực hiện với tư cách là định chế tài chính
trung gian là tự đi tìm kiếm lợi nhuận, chênh lệch giữa lãi suất ký thác và cho vay. Khác
với nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, nghiệp vụ ngân hàng bán buôn do các ngân hàng bán
buôn [merchant bank] tiến hành, chủ yếu giao dịch với các doanh nghiệp lớn, các nhà
đầu tư chuyên nghiệp, chính phủ và chính quyền địa phương, với số tiền nhận ký thác từ
hàng trăm nghìn USD trở lên và cho vay hàng tỷ USD trở lên. Nói chung họ không nhận
ký thác từ công chúng. Hoạt động của ngân hàng bán buôn hết sức phong phú, trước hết
thực hiện đầu tư cho các công ty lớn, bao gồm các hoạt động tư vấn, dàn xếp, ký kết các
hợp đồng tài trợ cho chương trình đầu tư của các bạn hàng của công ty. Hoạt động ngân
hàng bao gồm việc cấp các khoản tín dụng cho công ty đến việc bảo lãnh phát hành
chứng khoán…Ngoài việc thông báo và dàn xếp việc tài trợ cho khách hàng trong nước,
các ngân hàng bán buôn còn cung cấp thông tin cho khách hàng quốc tế và dàn xếp việc
tài trợ xuất khẩu.
Những định chế tài chính trung gian phi ngân hàng [Non-bank financial institution]
thông thường là các hiệp hội đầu tư, các trung gian tài trợ, các công ty bảo hiểm, các quỹ
trợ cấp, các đơn vị ủy thác và các cơ sở đầu tư ủy thác. Những định chế tài chính phi
ngân hàng phát triển mạnh mẽ do nhiều nguyên nhân khác nhau về lịch sử, địa lý và kinh


tế. Điều cần lưu ý là, cùng với quá trình phát triển và đan xen các nghiệp vụ giữa các định
chế tài chính ngân hàng và phi ngân hàng ở các nước công nghiệp phát triển, người ta dự
2
đoán rằng, ranh giới giữa chúng ngày càng thu hẹp lại, xuất phát từ quá trình cạnh tranh
và sửa đổi pháp luật và do vậy, chúng ngày có xu hướng hòa quyện vào nhau. Thí dụ, các
ngân hàng dần dần tham gia vào lĩnh vực tài trợ bất động sản, trong khi đó các hiệp hội
đầu tư xây dựng lại đang tham gia vào các dịch vụ thanh toán, và từ đó sẽ hình thành định
chế chung hoặc tổng hợp, trong đó mỗi một nhóm ngân hàng đều đảm nhận trọn vẹn các
khâu dịch vụ tài chính với tư cách là các định chế tài chính trung gian.
Sở dĩ không một tổ chức nào trong số các tổ chức được nêu trên được liệt vào danh
sách ngân hàng trung gian, bởi vì họ không thực hiện chức năng trung gian thu nhận vốn
bằng cách phát hành những tài sản nợ và sau đó, dùng vốn này để mua các tài sản có. Tuy
thế, họ là quan trọng trong quá trình khơi nguồn vốn từ những người tiết kiệm tới những
người có cơ hôi đầu tư sinh lời.
7.2. Các định chế tài chính phi ngân hàng
Tính đa dạng trong tổ chức hoạt động là một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị
trường. Mỗi nước đều có những trung gian tài chính riêng biệt của mình. Vì thế, nếu dựa
trên tên gọi của từng trung gian tài chính của mỗi nước thì không thấy sự giống nhau giữa
các trung gian tài chính của nước này với các nước khác. Nhưng về phương diện nghiên
cứu, có thể chấp nhận một số cách phân loại các tổ chức tài chính tín dụng ở các nước
phát triển hiện nay dựa vào nguồn gốc tình hình của chúng cho dễ nhớ. Cách phân loại
này được phân biệt rõ rệt từ thập niên 1930 đến thập niên 1970. Nhưng thập niên 1980
trở đi, sự phân biệt không còn rõ rệt nữa.
7.2.1. Hiệp hội cho vay và tiết kiệm [Savings and Loan Associations]
Ra đời từ năm 1831 ở Lyon và Philadelphia, Hiệp hội cho vay và tiết kiệm chủ yếu
cho vay để mua nhà, đất chậm trả đối với những đối tượng có thu nhập thấp trong xã hội.
Hiệp hội bao gồm nhiều loại hoạt động dưới những tên gọi và những nghiệp khác nhau
tùy theo luât lệ của địa phương sở tại. Nhưng nguyên tắc hoạt động có nhiều điểm giống
nhau.
Khi xưa mới thành lập, phần lớn những hiệp hội là những tổ chức có tính cách tương

trợ. Lúc ban đầu, hơn một thế kỷ nay một nhóm người đồng ý bỏ chung tiền tiết kiệm và
mỗi hội viên của nhóm cam kết đóng góp đều đặn theo một thời gian biểu định sẵn để có
đủ tiền cho một vài người trong nhóm vay cất nhà. Người vay mượn đầu tiên, rồi kế tiếp
cam kết hoàn tiền lại đều đặn cho hiệp hội để hiệp hội có đủ tiền tài trợ cho những hội
3
viên khác xây cất nhà. Khi mọi hội viên đã được thỏa mãn nhu cầu để ở, hiệp hội coi như
chấm dứt hoạt động.
Người muốn vay tiền ở hiệp hội trước hết phải là thành viên của nó. Các thành viên
này mỗi tháng đóng vào hiệp hội một khoảng tiền nhất định [thường là nhỏ], những
khoản tiền được nộp vào này được xem như khoản tiền gởi, có lãi suất hàng tháng đàng
hoàng. Các khoản đóng góp hàng tháng này của các thành viên hợp thành một quỹ tiền
lớn, hiệp hội bắt đầu xét việc cho vay, hàng tháng cũng có nhiều thành viên đăng ký vay.
Danh sách vay được đưa ra trước tất cả mọi thành viên để quyết định. Mỗi thành viên xin
vay tiền lần lượt đề xuất mức lãi suất mà mình có khả năng trả cho tiền được vay. Người
nào đề xuất mức lãi suất cao nhất sẽ được vay trong đợt ấy.
Lãi suất cho vay và lãi suất tiền gởi của hiệp hội là thuộc vào loại thấp nhất so với các
tổ chức tài chính khác kể từ khi nó được hình thành cho đến những thập niên đầu thế kỷ
20. Cho đến những năm 1900, hoạt động cho vay chính của nó cũng vẫn còn xoay quanh
hình thức cho vay có cầm cố thế chấp nhà cửa [mortgage loan] với những người lao động
thiếu tiền tiêu dùng hoặc làm ăn với lãi suất hàng năm khá thấp.
Nhưng dần về sau hiệp hội vẫn tồn tại trên một căn bản lâu dài như hoạt động của một
ngân hàng. Ngày nay, các hiệp hội này có vốn từ tiền gởi chiếm từ 70-80% tổng số vốn
hoạt động [hay tài sản nợ], khoảng 10% là vay mượn từ các nguồn khác và 10% còn lại là
vay của chính quyền địa phương, trung ương hoặc các ngân hàng trung gian khác. Người
có tiền tiết kiệm gởi tiền vào hiệp hội không phải là để ký thác như ký thác tại NHTM mà
là để mua cổ phần và được chia lãi cổ phần, không phải để mua hay cất nhà như lúc khởi
thủy. Còn hiệp hội dùng tiền đó để cho vay mua nhà hay cất nhà và người vay sẽ trả lại
hàng tháng đều đều cho đến khi hết nợ. Thời gian này lên tới 20 năm, có khi hơn. Số tiền
vay được đảm bảo bằng việc thế chấp nhà. Vì thời gian cho vay dài hạn như vậy, nên có
nhiều rủi ro không dự kiến trước được. Để phòng tránh những nguy cơ có thể xảy ra, hiệp

hội đang trong quá trình cải tiến để thích ứng với đà phát triển rất nhanh của xã hội, tìm
chỗ đứng vững với thời gian trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Các nhà kinh tế đều nhìn nhận rằng, trong những nền kinh tế đã phát triển, hiệp hội
cho vay và tiết kiệm với lãi suất thấp và tiêu chuẩn an toàn cao trong cho vay sẽ không
cạnh tranh nổi với mức độ giành giật đến chóng mặt cùng với những rủi ro của các ngân
hàng và tổ chức tài chính khổng lồ khác, với những khoản lãi suất cao hấp dẫn do các
đơn vị này đưa ra. Tuy nhiên, nó luôn luôn là mô hình tốt cho việc khuyến khích tương
4
trợ nhau cùng làm ăn để cùng cải thiện thu nhập ở các thành phần nhân dân có mức lương
thấp hoặc trung bình vốn rất phổ biến ở các nước đang phát triển, hạn chế bớt khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội.
7.2.2. Các quỹ trợ cấp và hưu trí [Mutual assistance and Pension funds]
Kế hoạch làm lợi từ những đồng lương hưu trí ít ỏi đã bắt đầu ở Hoa Kỳ từ năm 1870
và lan rộng sang các nước khác từ đầu thế kỷ 20. Những người đã về hưu hoặc đang nhận
trợ cấp có thể gởi tiền vào quỹ này thông qua cơ quan trả hay cấp hàng tháng. Những
người chưa về hưu có thể yêu cầu các cơ quan hoặc xí nghiệp trả trợ cấp hưu cho mình,
bắt đầu [hàng tháng hoặc năm] chuyển dần số tiền mình được hưởng khi về về hưu vào
một quỹ hưu trí nào đó do mình chỉ định. Các tổ chức này được hình thành bắt nguồn từ
thực tế là ngày càng có nhiều người muốn tiết kiệm cho dự phòng lúc về hưu sau này.
Nguyên tắc hoạt động của các tổ chức này cũng rất đơn giản: huy động từng phần trong
thời gian lao động và có thu nhập để trả từng phần khi về hưu hoặc mất sức lao động.
Những chi tiết cụ thể về huy động vốn và trả vốn có thể rất đa dạng và phóng phú nhằm
thoả mãn nhu cầu của người gởi tiền.
Về phương diện cung ứng vốn tài chính, các quỹ này đóng vai trò rất quan trọng, vì
trong quá trình huy động vốn, thì số tiền đóng góp và tiền thu lãi vượt quá số tiền phả trả
lương hưu trí, các quỹ này sẽ còn một khoảng vốn dự trữ khá lớn để thâm nhập vào thị
trường tài chính [mua các tín phiếu, trái phiếu hoặc bỏ vốn vào các tổ chức tài chính
khác]. Quỹ hưu trí sẽ bắt đầu tính lãi suất cho đương sự kể từ ngày nó nhận tiền. Sau đó
dùng vốn nói trên đầu tư vào chứng khoán để tạo ra lãi cho quỹ. Vì tiền lương hưu và lãi
suất phải trả hàng tháng, hàng năm là một con số hầu như được xác định trước và theo

định kỳ, cho nên phần lớn vốn của quỹ được xem như có thời gian dài, chủ động trong
quá trình sử dụng. Do vậy các quỹ thường đầu tư vào chứng khoán hoặc tài sản dài hạn
để có lãi cao.
Các công ty hoặc đơn vị kinh doanh ở các nước công nghiệp phát triển luôn luôn thành
lập cho mình một quỹ trợ cấp và hưu trí [Retirement and Pension Funds] như thế. Thay vì
sẽ trả tiền hưu hoặc trợ cấp "cả gói", họ trả từng tháng, rồi dùng lượng vốn ấy kinh doanh
hoặc đầu tư. Bằng cách như vậy, các quỹ không những tạo thêm vốn hoạt động cho nền
kinh tế và thị trường tài chính nói riêng, mà còn tạo thêm lợi tức cho những người đã về
hưu hoặc có trợ cấp, giúp họ có được cuộc sống về già sung túc hơn. Đầu tư chủ yếu của
5
quỹ là vào chứng khoán dài hạn và các tài sản sinh lãi ổn định khác. Nó cho vay rất ít, chỉ
trong trường hợp có tính an toàn cao.
7.2.3. Các quỹ tương trợ [Mutual Funds]
Ngày nay, các nước công nghiệp phát triển gọi tên cho một loại hình tổ chức tài chính
là “Quỹ tưong trợ”, còn cách đây hơn 10 năm nó có tên là các công ty đầu tư [Investment
trusts]. Về khởi nguyên, các quỹ này được hình thành từ ý nghĩ có tính chất công ích của
một số nhà từ thiện từ thế kỷ 19: đại đa số công chúng có lợi tức khiêm nhường cần phải
đựơc hưởng lợi về sự tằn tiện, đạm bạc của mình, đó là một mặt; mặt khác nền kinh tế
cần phải được lợi nếu như số tiền tiết kiệm đó được dùng để cho vay những nơi nào mà
rủi ro tối thiểu.
Hai ý nghĩ đó giúp những nhà hoạt động vì công ích thành lập loại hình tổ chức tài
chính này. Nó đáp ứng được yêu cầu cá nhân và yêu cầu của xã hội. Về cá nhân, một số
tiền tiết kiệm quá ít, tích luỹ ở nhà thì không sinh lợi cho vay mà không biết cách thì
nhiều rủi ro, gửi vào ngân hàng thương mại với cách hoạt động mạo hiểm của họ lúc bấy
giờ cũng đầy rủi ro. Yêu cầu của xã hôi là không nên để mọi tài nguyên nằm “chết” ở
một xó, trong khi xã hội, nền kinh tế cần tài nguyên đó làm cho đất nước phồn vinh hơn.
Sau chiến tranh thế giới II cho đến thập niên 80, các quỹ tương trợ tiếp tục được cải
tiến một bước. Các quỹ này thu hút được các nhà đầu tư nhỏ ít vốn, các cá nhân có ít tiền
tiết kiệm muốn sinh lời cho những đồng tiền của mình. Họ bỏ vốn vào quỹ, những người
quản lý quỹ dùng nó để đầu tư vào chứng khoán lãi suất cao. Rồi lại dùng chứng khoán

lãi suất cao [hay chứng khoán dài hạn] này làm đảm bảo để phát hành hoặc mua đi bán
lại chứng khoán ngắn hạn khác. Lợi tức được chia theo tháng hoặc nửa năm một lần, và
cao hay thấp là phụ thuộc vào kết quả kinh doanh. Các quỹ này đóng góp khá quan trọng
trong việc lôi cuốn những người dân ít tiền nhất, lợi tức dư không nhiều, thu nhập thấp
vào những dịch vụ đầu tư vừa làm lợi cho chính họ vừa tạo vốn luân chuyển cho sản
xuất và trao đổi. Nó chiếm một khối lượng lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế và vận
động số tiền ấy vào thị trường tài chính.
7.2.4. Các công ty bảo hiểm [Insurance Companies]
Thoạt đầu, các công ty bảo hiểm ra đời do nhu cầu ổn định sản xuất, kinh doanh và đời
sống, với chức năng chủ yếu và duy nhất là “lá chắn” phòng ngừa sự mất ổn định trong
đời sống kinh tế xã hội, khắc phục những rủi ro hoặc tai nạn bất ngờ. Lúc này, người ta
chưa nghĩ tới vai trò của các công ty bảo hiểm như một tổ chức tài chính trung gian, thực
6
hiện chức năng thu hút vốn tiết kiệm của xã hội, phục vụ cho yêu cầu của các doanh
nghiệp.
Ngày nay, các công ty bảo hiểm là hình thức điển hình của dạng công ty tài chính ở
hầu khắp các nước công nghiệp trên thế giới. Hoạt động bảo hiểm rất rộng, nó đi vào
từng lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Ở những nước phát triển, hầu hết mọi tài sản
và hoạt động đều được bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm đóng vai trò cung ứng tài chính rất quan trọng cho thị trường
vốn. Ngoài mục đích nhân đạo [huy động sự đóng góp của nhiều người để bồi thường
cho một số người], các tổ chức bảo hiểm còn đảm nhiệm chức năng môi giới tài chính rất
quan trọng. Các công ty bảo hiểm thực hiện kinh doanh trung gian tài chính chuyển một
dạng tài sản này thành một dạng tài sản khác cho công chúng. Các công ty bảo hiểm sử
dụng các phí bảo hiểm thu được từ hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản có [ví dụ
như các trái khoán, các cổ phiếu và các món cho vay thế chấp hoặc các món vay khác] rồi
từ những tài sản có này được dùng thanh toán cho những khiếu nại đòi bồi thường theo
các hợp đồng đã bán. Thực tế, các công ty bảo hiểm chuyển các tài sản có [các trái phiếu,
các cổ phiếu và các món vay] thành các hợp đồng bảo hiểm, việc đó tạo ra nhiều dịch vụ
[ví dụ, dàn xếp khiếu nại đòi bồi thường, các chương trình tiết kiệm, các đại lý bảo hiểm

tin cậy]. Với nguồn vốn hoạt động rất dồi dào và khá dễ dàng từ sự đóng góp tự nguyện
của các thân chủ, các công ty đã nhanh chóng dùng vốn ấy đem cho vay hoặc đầu tư để
tạo ra lãi. Do tập trung được nguồn vốn lớn từ tất cả các pháp nhân và thể nhân trong xã
hội, ngoài nghĩa vụ để lại một số vốn cần thiết để chi trả bảo hiểm thường xuyên, các
công ty bảo hiểm tích cực tham gia vào các hoạt động mua bán tín phiếu, gởi vào tài
khoản tiền gởi ngân hàng, mua các cổ phiếu, trái phiếu. Sư bành trướng của các công ty
bảo hiểm mạnh tới mức ở một số nước người ta phải qui định giới hạn mua cổ phiếu của
chúng trong các doanh nghiệp sản xuất. Chẳng hạn ở Thụy Điển, các công ty bảo hiểm
chỉ được phép mua cổ phiếu của các công ty tư nhân không quá 10% tổng số quyền bỏ
phiếu của công ty đó. Trên thế giới khi nói đến vai trò trung gian của các tổ chức tài
chính, người ta không thể không nói đến các công ty bảo hiểm với số vốn huy động
khổng lồ của chúng.
Ngay từ khi mới bắt đầu phát triển, công ty bảo hiểm đã phân thành hai nhóm: nhóm
các công ty bảo hiểm sinh mạng và nhóm các công ty bảo hiểm tài sản, bảo hiểm rủi ro
[hay còn gọi là công ty bảo hiểm nhân thọ và công ty bảo hiểm tài sản-tai nạn]
7
Hầu hết các công ty bảo hiếm sinh mạng đều có khuynh hướng dùng tiền bảo hiểm để
đầu tư vào tài sản dài hạn, như chứng khoán dài hạn của doanh nghiệp, chính phủ hoặc
cho vay cầm cố. Do số lượng người tử vong hằng năm thường không nhiều, lượng tiền
mặt phải chi ra vì trách nhiệm bảo hiểm không lớn, vì thế các công ty nắm trong tay một
nguồn vốn lớn, ổn định và rất lâu dài, còn hơn cả tiền gởi có kỳ hạn. Việc đầu tư vào các
chứng khoán dài hạn [long-term Bonds] trở thành điều đương nhiên để có lãi suất cao.
Ngành bảo hiểm nhân thọ có một lịch sử lâu dài và nổi bật. Một công ty, mà nay được
biết dưới tên tuổi là Prestyter Ministers Fund, đã được xem là công ty bảo hiểm nhân thọ
lâu đời nhất thế giới.
Từ lúc khởi đầu hoạt động, trải qua nhiều thập kỷ nối tiếp nhau, ngành bảo hiểm nhân
thọ đã phát triển tự nhiên, dần dần trở thành một ngành kinh doanh với mức độ phức tạp
cao, cung cấp bảo trợ cho một phạm vi rộng lớn về những rủi ro tài chính chứ không chỉ
đơn thuần liên quan đến việc qua đời của người có hợp đồng bảo hiểm. Trong thực tế có
ba loại hình rủi ro chính yếu hiện nay được sự bảo trợ của các công ty bảo hiểm nhân thọ:

đó là tử vong, tuổi già [hưu trí], và tàn phế.
Công ty bảo hiểm nhân thọ thực chất là tổ chức tài chính trung gian. Theo lịch sử phát
triển ngành bảo hiểm, công ty bảo hiểm nhân thọ có hai nguồn thu quan trọng nhất, đó là
phí bảo hiểm do người mua bảo hiểm đóng và lợi nhuận do hoạt động đầu tư. Ngày nay,
nguồn thu do đầu tư đã tăng nhanh hơn nguồn thu từ phí bảo hiểm. Chiều hướng gia tăng
đột biến trong nguồn thu do đầu tư phản ánh phần nào lãi suất khá cao trong mấy chục
năm qua và cũng phản ánh vị thế đầu tư sông xáo hơn, linh hoạt và để thích ứng hơn. Khi
thu phí bảo hiểm các nhà bảo hiểm phải đầu tư nguồn vốn này ngay lập tức nhằm chuẩn
bị đến thời điểm chi trả bồi thường cho người mua bảo hiểm, hoặc cho người thụ hưởng.
Mãi đến gần đây, chiến lược đầu tư của ngành bảo hiểm vẫn có thể mô tả rất đơn giản
như sau: mua cổ phiếu dài hạn trên thị trường vốn và rồi cất giữ cho đến khi đáo hạn, như
thế sẽ an tâm hơn với mức thu nhập dưới hình thức tiền lãi và cổ tức. Tóm lại, chiến lược
đầu tư được mô tả ngắn gọn là chiến lược "mua-nắm giữ".
Ngược lại, các công ty bảo hiểm tài sản như xe cộ, nhà của và các phương tiện khác
hoặc bảo hiểm rủi ro thường xuyên hơn đã dẫn đến lượng tiền bảo hiểm phải chi hàng
tháng, thậm chí đến hàng tuần là rất cao. Do đó các công ty bảo hiểm rất ít dám dùng vốn
để đầu tư vào các tài sản lâu dài. Thông thường họ chỉ đầu tư vào các chứng khoán ngắn
hạn hoặc các loại tài sản dễ thanh khoản, để bất cứ khi nào cần tiền mặt bất thần vì trách
8
nhiệm bảo hiểm, họ có thể bán các loại tài sản đó một cách dễ dàng ra thị trường để lấy
tiền chi trả. Loại tài sản chủ yếu là trái phiếu chính phủ và trái phiếu của các công ty với
yêu cầu là thu nhập ổn định, khá an toàn và dễ dàng chuyển nhượng trên thị trường.
Nhìn chung, hoạt động bảo hiểm dễ có lãi và vốn ban đầu gần như là không cao, hoạt
động chủ yếu dựa vào tiền nhân dân là chủ yếu. Khi cần thanh toán lại có thể đi vay dễ
dàng ở các ngân hàng trung gian khác. Tất cả các điều vừa nêu làm cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm phát triển rất nhanh ở nhiều nước. Trong những năm gần đây, các công
ty bảo hiểm vẫn tiếp tục như là bộ phận huy động tiền để dành của đại đa số nhân dân, để
rồi cung ứng một cách quan trọng cho nhu cầu đầu tư các mặt trong nền kinh tế của các
nước công nghiệp. Như thế, các công ty bảo hiểm đã thực hiện một chức năng kinh tế
quan trọng bằng cách chuyển khoản tiết kiệm của các hộ gia đình thành hoạt động đầu tư

thực tế cho các doanh nghiệp và chính phủ.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nói chung còn chưa phát triển và chủ yếu mới đáp
ứng được một phần nhu cầu phòng ngừa rủi ro trong các hoạt động của đời sống kinh tế
xã hội. Hiện nay chỉ có hơn 10 công ty bảo hiểm, hoạt động chính vẫn là công ty bảo
hiểm Việt Nam [Bảo Việt] và công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh [Bảo Minh],
chúng là những doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cường độ hoạt động, mức độ phát triển
tài sản nợ và tài sản có cùng phương thức hoạt động vẫn còn rất hạn chế so với nước
ngoài. Vì vậy cần có phương án mở rộng các dịch vụ bảo hiểm sang các thành phần kinh
tế khác để hình thành các công ty bảo hiểm tư nhân, đồng thời có phương án sử dụng các
công ty bảo hiểm như là một tổ chức tài chính trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Việc nhanh chóng tổ chức lại hoạt động bảo hiểm rõ ràng phải được nhìn nhận như một
yêu cầu bức xúc của nền kinh tế và của xã hội.
7.2.5. Các công ty tài chính [Financial Companies]
Các công ty, tập đoàn kinh doanh, khi đã đủ lớn mạnh thường thành lập cho chính
mình một công ty tài chính. Các công ty tài chính này ngoài nhiệm vụ huy động tài chính
cho công ty mẹ, chức năng còn lại của nó là kinh doanh tiền tệ. Hoạt động này này nằm
ngoài hệ thống ngân hàng, nhưng cũng cung cấp tín dụng cho sản xuất, ngoài ra còn cung
cấp tín dụng tiêu dùng. Đây là một loại định chế tài chính trung gian thực hiện các khoản
cho vay đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên cơ sở đảm bảo bằng tài sản hữu
hình.
9
Về tín dụng sản xuất, nhiều công ty tài chính chuyên cung cấp tín dụng cho những nhà
công nghiệp mua máy móc, trang thiết bị và dùng những tài sản đó như là một vật cầm
cố. Số tiền vay được hoàn trả lại theo phân kỳ đều đặn định trước theo lịch trình. Nghiệp
vụ cho vay này thực ra cũng là những nghiệp vụ cho vay của ngân hàng trung gian, vì
vậy ở đây thường có sự cạnh tranh. Tuy nhiên công ty tài chính không nhận tiền gởi của
công chúng và thường cho vay những nhà công nghiệp nhỏ và những nhà buôn sỉ. Ưu thế
của công ty tài chính là dựa vào sự hiểu biết chuyên môn về ngành công nghiệp được vay
hoặc dựa vào sự tiếp xúc cá nhân người vay. Họ bán trả chậm cho các xí nghiệp vừa và
nhỏ và vừa vay vốn với lãi suất vừa phải hơn để mua sắm thiết bị, máy móc do chính

công ty mẹ sản xuất. Đây chính là chính sách kinh doanh hai đầu thường thấy ở các công
ty hoặc tập đoàn sản xuất lớn.
Ngoài ra, còn có việc cho vay trả góp để mua hàng hóa lâu bền [durable goods] như xe
hơi…, thời hạn trả góp biến đổi tùy theo loại hàng. Lãi suất thường rất cao. Những chi
phí phụ thêm vào một phần lãi suất được đưa vào giá bán. Phương thức này ngày nay trở
nên thông dụng ở các nước công nghiệp [Installment Sales Loans].
Về tín dụng tiêu dùng, hình thức phổ biến nhất là tiệm cầm đồ [Pawnbrokers]. Nó được
thiết lập nhằm mục đích cho những người nghèo vay những món tiền nhỏ bằng cách cầm
cố những tư trang, y phục hoặc đồ gia dụng. Loại tín dụng này có tính tiêu dùng nhiều
hơn là sản xuất, vì những người đi vay thường để thỏa mãn những nhu cầu cấp bách như
trả nợ, chi tiêu vào cuối tháng, đài thọ những chi phí về ốm đau,…Tiệm cầm đồ ở các
nước được quan niệm như là một định chế giúp đỡ những người yếu kém về tài chính để
tránh nạn cho vay nặng lãi. Lúc ban đầu, tiệm cầm đồ không lấy lời hay chỉ lấy lời rất
thấp để trang trải chi phí mà thôi. Về sau, nó được thiết lập ở các thị xã dưới hình thức
“Quỹ tín dụng thị xã “[Caisse de credit municipal].
Ở các nước phát triển, các dạng công ty tài chính phát triển rất nhanh chóng. Trong
thời gian 2 thập niên gần đây, các công ty này bành trướng ngày càng lớn và nắm quyền
kiểm soát [trực tiếp hoặc gián tiếp] nhiều ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, hoạt động của
chúng bao trùm lên các hoạt động của các NHTM để nắm giữ và chi phối hoạt động của
các ngành kinh tế.
Những năm vừa qua, công ty tài chính đã có nhiều thay đổi đáng kể, nhiều thay đổi
chính yếu về nguồn vốn, về việc sử dụng vốn. Ngoài ra các công ty tài chính ngày nay
còn đối đầu với sự gia tăng cạnh tranh từ các NHTM, các tổ chức tín dụng, các hiệp hội
10
tiết kiệm và cho vay, cùng các tổ chức cho vay khác. Do áp lực về giá cả và cạnh tranh,
các loại hình công ty tài chính đã phải đa dạng hóa các hoạt động nhằm thâm nhập cùng
một lúc vào cả 2 thị trường cho vay đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Cũng
có khuynh hướng là liên kết, hợp nhất giữa các công ty tài chính nhằm giảm thiểu số
lượng các công ty độc lập. Khuynh hướng chính là hướng đến những tổ chức tài chính
lớn hơn, đa dạng hơn với nhiều loại hình tín dụng từ những khoản cho vay nhỏ bé đối với

tùng người tiêu dùng đến những vụ cho vay và cho thuê cực kì lớn đối với các doanh
nghiệp tầm cỡ .
Cho đến thập kỉ 1970, có ba loại hình công ty tài chính sau: công ty tài trợ tiêu dùng,
công ty tài trợ bán lẻ và công ty tài trợ thương mại. Dù rằng sự phân biệt ấy ngày nay
không mấy rõ ràng nữa, nhưng đối với những công ty tài chính mạnh nhất đang hoạt
động trong 3 lĩnh vực ấy, thì việc nhận rõ những khác biệt giữa 3 kiểu mẫu ấy vẫn là hữu
ích. Đó là vì mỗi một hình thức công ty biểu hiện một phạm vi cung ứng dịch vụ nhắm
đến một loại khách hàng riêng mà ngành tài chính vẫn đang tiếp tục phục vụ. Dù trong
trường hợp nào, các công ty tài chính ở mọi quy mô đều vẫn bằng lòng làm ăn với cả hai
thị trường tín dụng và thương mại.
Trong 2 thập kỉ cuối của thế kỉ 20, việc đa dạng hóa đã diễn ra với nhiều loại hình tín
dụng phong phú, phản ánh được tầm quan trọng của đổi mới tín dụng của công ty tài
chính, ngay cả với những loại hình tín dụng truyền thống, những chương trình cho vay
của các công ty tài chính cũng chuyển hướng hoạt động đến cả việc tài trợ và cho thuê
nhà di động, chú trọng đến mức tín dụng tối đa, thế chấp bổ sung.
Không những loại hình cho vay của công ty tài chính đã thay đổi mà những nguồn vốn
để cho vay cũng đã chuyển hướng. Công ty tài chính có nhiều nguồn vốn, quan trọng
nhất là thương phiếu [được phát hành rộng rãi nhất trên thị trường], trái khoán dài hạn,
vốn của công ty mẹ cấp cho công ty con, các khoản vay ngân hàng và các kì phiếu ngắn
hạn khác. Thế nhưng, tầm quan trọng của những nguồn vốn khác nhau này đã chuyển
biến đáng kể theo dòng thời gian.
Nội dung hoạt động chính của các công ty tài chính
1- Công ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước;
11
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện
hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế;

- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
2- Công ty tài chính được cho vay dưới các hình thức
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo
quy định hiện hành của Luật các Tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác.
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
3- Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
- Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu,
trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
- Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có
giá khác với các tổ chức tín dụng khác.
4- Bảo lãnh
Công ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với
người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của công ty tài chính phải được thực hiện theo quy
định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các Tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân
hàng Nhà nước.
5- Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước.
6- Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ
- Mở tài khoản: Công ty tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
nơi công ty tài chính đặt trụ sở chính và các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được Ngân hàng
Nhà nước cho phép.
Công ty tài chính có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì
tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Dịch vụ ngân quỹ: Công ty tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho
khách hàng.
7- Công ty tài chính được thực hiện các hoạt động khác sau đây
12
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác;

- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh
nghiệp;
- Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân
theo hợp đồng;
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng;
- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các
dịch vụ khác.
8- Công ty tài chính được thực hiện các nghiệp vụ dưới đây sau khi được Ngân hàng Nhà
nước hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cho phép
- Hoạt động ngoại hối;
- Hoạt động bao thanh toán;
- Các hoạt động khác.
7.2.6 Công ty cho thuê tài chính [Financial Leasing Companies]
Thuê tài sản đối với người đi thuê là sự cần thiết khách quan của nền sản xuất xã hội.
Ý nghĩa của từ “thuê” nói chung là vấn đề sử dụng nó, chứ không phải vấn đề sở hữu nó.
Chính việc sử dụng tài sản mới tạo ra của cải. Nhằm khắc phục nhược điểm nghiệp vụ
cho vay và khuyến khích Doanh nghiệp đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ
mới để đẩy mạnh sản xuất, hoạt động cho thuê Tài chính tại Việt nam đã được hình thành
trên cơ sở tín dụng thuê mua, và chính thức đi vào hoạt động từ 1995 theo Nghị định
64/CP của Chính phủ, nay là Nghị định 16/CP và các văn bản khác.
Qua thời gian vận hành các Công ty cho thuê tài chính đã khẳng định đây là một kênh
dẫn vốn mới có đặc trưng và tiện ích riêng, giúp các Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế có thể sử dụng để phát triển sản xuất kinh doanh nhất là các Doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng

giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện
13
vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối
với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời
hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại
tài sản hoặc tiếp tục thuê.
Nội dung hoạt động chính của các Công ty cho thuê tài chính
1. Công ty cho thuê tài chính được phép huy động vốn từ các nguồn:
a] Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân.
b] vay vốn ngắn, trung và dài hạn của các TCTD trong và ngoài nước.
c] Phát hành các loại giấy tờ có giá [có kỳ hạn trên một năm khi được NHNN cho phép]
d] Tiếp nhận các nguồn vốn khác theo quy định của NHNN.
2. Công ty cho thuê tài chính được thực hiện các nghiệp vụ sau:
a] Cho thuê tài chính,
b] Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính,
c] Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính,
d] Thực hiện các dịch vụ uỷ thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên quan đến hoạt động cho
thuê tài chính,
đ] Các hoạt động khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
3. Hoạt động ngoại hối:
a] Hoạt động ngoại hối của Công ty cho thuê tài chính liên doanh và Công ty cho thuê tài
chính 100% vốn nước ngoài được quy định tại Giấy phép hoạt động,
b] Các Công ty cho thuê tài chính khác muốn hoạt động ngoại hối đều phải có đơn và hồ
sơ xin phép NHNN theo quy định.
7.2.7.Các công ty chứng khoán [Securities Companies]
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện kinh doanh chứng
khoán thông qua các nghiệp vụ của mình. Các công ty chứng khoán là thành viên của các
thị trường chứng khoán, họ là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ có sự hoạt động của công ty
chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông buôn bán tấp nập, qua đó có một khối

lượng vốn khổng lồ được tập hợp từ những nguồn vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư đưa vào
sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Lịch sử hình thành và phát triển TTCK thế giới ghi nhận rằng, thời tiền sử của thị
trường chứng khoán tập trung những tổ chức môi giới chứng khoán hoạt động đơn độc.
14
Không có thị trường chứng khoán tập trung họ vẫn làm được vai trò trung gian mua bán
chứng khoán cho những người cần mua và những người cần bán. thị trường chứng khoán
chẳng qua chỉ là một sự tập hợp của những nhà môi giới chứng khoán. Những nhà môi
giới chứng khoán đã thống nhất với nhau thành lập một thị trường chứng khoán tập trung
để thuận tiện cho việc giao dịch mua bán chứng khoán.
Trong những năm 1800, các đơn vị kinh doanh trên thế giới thường dựa vào ngân hàng
hoặc thông qua ngân hàng để phát hành hay mua lại chứng khoán của họ. Các ngân hàng
sau khi giám định tình hình tài sản và năng lực của công ty, bắt đầu lựa chọn loại chứng
khoán, giá cả và số lượng rồi tiến hành phát hành vào thị trường tài chính. Ngân hàng tiếp
tục theo dõi các công ty về tình hình làm ăn sau khi phát hành chứng khoán [để có thêm
vốn mới, khả năng mua lại chứng khoán có nổi hay không. Đồng thời, các ngân hàng
cũng là người giới thiệu, cung cấp thông tin cần thiết về chứng khoán cho công ty phát
hành cho các đối tượng cần mua.
Đến những năm 1870, ở Luân Đôn, Paris và NewYork đã có sự xuất hiện của một vài
công ty tư nhân làm những việc như vậy. Vào lúc ấy các công ty này đảm nhiệm 2 nhiệm
vụ rất đơn giản:
Giám định các công ty cần phát hành chứng khoán rồi ôm cả gói chứng khoán để phát
hành ra thị trường. Lợi tức là phần chênh lệch giữa mệnh giá và giá cả thị trường của
chứng khoán theo cung cầu.
Giới thiệu cho các khách hàng biết về từng loại chứng khoán, đặc điểm, lãi suất …và
ai cần thì tư vấn thêm cho họ nên mua loại chứng khoán nào.
Các công ty loại này phát triển rất nhanh chóng. Nhiều công ty trở thành đại lý phát
hành chứng khoán chuyên nghiệp cho hàng trăm tập đoàn sản xuất lớn, thí dụ như các
công ty Morgan Stanley, Salomon Brother của Mỹ. Ngày nay, người ta gọi những công
ty này là công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán [security broker and dealers].

Ngày 17/5/1792 được xem là dấu mốc quan trọng với sự kiện 24 nhà môi giới tại Wall
Street đã hóa giải vấn đề khuất mắc nhất, đó là yêu cầu thanh khoản bằng sự ngồi lại và
nói chuyện nghiêm túc. Họ nhất trí trên giấy trắng, mực đen một cách long trọng rằng,
những người giao dịch sẽ cùng kết hợp lại và tất cả các giao dịch của các thành viên đã
tham gia kết ước sẽ chỉ diễn ra giữa họ với nhau thôi. Và từ đó sở giao dịch chứng khoán
lớn nhất này xem như đã khai sinh. Sự kiện lịch sử này lại diễn ra chỉ bằng một văn kiện
ghi vỏn vẹn chỉ có hai câu được gọi là thỏa thuận ButtonWood [Buttonwood Agreement].
15
Thỏa thuận được hình thành khá ngẫu nhiên, sau một cuộc thảo luận không theo một nghi
thức nào, dưới một tán cây có tên là Buttonwood tại số nhà 68 phố Wall Street. Nó đặt
nền móng cho việc hình thành TTCK có tổ chức hiện đại ngày nay. Sau hơn 29 năm kể từ
đó, TTCK vẫn tồn tại trên cơ sở và nguyên tắc gần như không thay đổi. Các quy định luật
lệ, cũng như kĩ thuật mới lần lượt được ra đời hoặc bổ sung, đã giúp hoàn thiện hơn cho
thị trường chứng khoán, làm cho hoạt động của thị trường nhanh chóng hơn, chính xác
hơn và có nổ lực để duy trì trật tự, trung thực và công bằng khi làm ăn trên TTCK giữa
các nhà môi giới với nhau. Từ đó cho đến nay, chỉ có các nhà môi giới là thành viên của
một sở giao dịch mới được mua và bán chứng khoán tại sàn giao dịch [trading floor] của
Sở giao dịch đó.
Ngày nay, ở các nước khác nhau có quy định khác nhau về công ty chứng khoán. Đại
thể, công ty chứng khoán có thể là công ty quốc doanh hoặc công ty tư nhân, công ty cổ
phần. Công ty chứng khoán là những đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch
toán kinh tế độc lập.
Công ty chứng khoán có các hoạt động nghiệp vụ chính sau:
1. Mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng [môi giới trung gian];
2. Mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của mình, cho bản thân, hưởng chênh lệch giá
[thương gia chứng khoán];
3. Phân tích, đánh giá giá trị các loại chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư thực hiện
việc mua bán chứng khoán [tư vấn đầu tư chứng khoán];
4. Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành cho đơn vị phát hành [bảo lãnh];
5. Quản lý danh mục đầu tư.

Các công ty chứng khoán lớn thực hiện tất cả các nghiệp vụ trên, tức là họ hành động
như những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán và như những ngân
hàng đầu tư. Công ty lớn nhất ở Mỹ là Merrill Lynch, tuy nhiên vẫn là loại nhỏ nếu xét
theo tiêu chuẩn Nhật, các công ty nổi tiếng khác là Paine Webber, Dean Witter Reynods
và Shearson Lehman Hutton. Công ty chứng khoán là thành viên của sở giao dịch chứng
khoán, họ có các nhà môi giới, thương gia và các chuyên gia. Công ty chứng khoán thành
viên phải đóng lệ phí thành viên [lệ phí ban đầu và lệ phí hàng năm], phải kí quỹ một số
vốn nhất định để thực hiện các nghĩa vụ pháp lý khi cần thiết.
Mỗi công ty chứng khoán được cử một số nhân viên môi giới chứng khoán hoạt động
tại sàn giao dịch của sở và được dăng kí trước, chỉ những môi giới chứng khoán đã đăng
16
kí mới được hoạt động giao dịch tại sàn giao dịch. Để trực tiếp giao dịch chứng khoán
trên sàn giao dịch, đơn vị phải hội đủ các tiêu chuẩn về tài chính và chuyên môn nghiêm
ngặt, đồng thời phải công nhận với tư cách là thành viên của sở giao dịch đó .
Các nhà môi giới là những đại diện thu xếp giao dịch cho khách hàng và hưởng hoa
hồng, họ không mua bán chứng khoán cho mình, mà chỉ là người nối kết và giúp thực
hiện yêu cầu của người mua và người bán. chứng khoán và tiền được chuyển dịch qua lại
từ khách bán sang khách mua. Trong quá trình đó, nhà môi giới không đứng tên tài sản,
gọi là không có vị thế. Trong tiếng Anh, nhà môi giới [broker] thường để chỉ một công
ty chứng khoán hơn để chỉ một nhân viên môi giới. Nhân viên môi giới của một công ty
chứng khoán còn được dùng phổ biến bằng từ “đại diện giao dịch”[Registered
Representative] hoặc “account executive”[AE] tùy theo họ nằm ở đâu trong công tác
quan hệ môi giới. Công chúng đầu tư thì gọi họ rằng “customer’s man “ hay “stock
broker”. Nhân viên môi giới là những người đại diện cho một công ty chứng khoán tại
một văn phòng địa phương, hoặc những người chịu trách nhiệm xử lý lệnh mua bán cho
khách hành ngay tại sở giao dịch.
Ở Mỹ người ta phân ra 2 loại người môi giới:
+ Môi giới được ủy nhiệm hay thừa hành [commission broker]. Họ làm việc hưởng
lương của công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các
công ty chứng khoán hay khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. Vì thế họ cũng được

gọi theo một tên chung khác là môi giới trên sàn [floor broker]. Các lệnh mua bán được
chuyển đến cho các môi giới thừa hành này có thể từ văn phòng công ty hay cũng có thể
từ các môi giới đại diện [registered representatives].
+ Môi giới độc lập hay “hai đô la” [two – dollar broker] hay còn gọi là nhà môi giới
độc lập [independent broker]: Họ chính là các nhà môi giới làm việc cho chính họ và
hưởng hoa hồng [thù lao] theo thương vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại
sở giao dịch [sàn giao dịch] giống như các công ty chứng khoán thành viên. Họ chuyên
thực hiện các lệnh cho các công ty thành viên khác của sở giao dịch. Sở dĩ như vậy vì tại
các Sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của một công ty
chứng khoán gửi tới quá nhiều không thể xử lý hết, hoặc vì lý do nào đó họ vắng mặt.
Lúc đó các công ty chứng khoán sẽ “hợp đồng” với các nhà môi giới độc lập để thực hiện
lệnh cho khách hàng của mình và trả cho loại môi giới này một khoảng tiền nhất định.
Khởi thủy, các nhà môi giới độc lập được trả cứ hai đô la cho một lô tròn chứng khoán
17
[100 cổ phần], nên người ta gọi quen thành “môi giới hai đô la”. Môi giới độc lập cũng
được gọi chung là môi giới trên sàn [floor broker]. Họ đóng vai trò không khác gì chức
năng của một môi giới thừa hành, ngoại trừ tư cách độc lập của họ, nghĩa là họ không
phải là nhân viên đại diện cho bất kỳ một công ty chứng khoán nào cả.
- Các nhà kinh doanh chứng khoán. Một công ty chứng khoán hành nghề kinh
doanh khi họ đóng vai trò là chủ nhân [principal] của lượng chứng khoán giao dịch, tức
họ mua hay bán bằng chính tài khoản [hay tồn kho] của họ. Chuyên ngành gọi hoạt động
kinh doanh chứng khoán này là “giao dịch có vị thế” hay có sở hữu [position trading]
giao dịch có vị thế của một công ty chứng khoán có thể được hiểu là công ty đang trong
“tư thế kiểm soát” lượng chứng khoán đang giao dịch. Nhằm mục đích duy trì một thị
trường trung thực và ổn định, các công ty thành viên có chức năng kinh doanh không
được giao dịch vượt giá trị tài khoản mà họ đang sở hữu. Trong TTCK điều tối kỵ là thủ
thuật giao dịch để làm giá [manipulation] hay các động tác nhằm đánh lừa quần chúng.
Luật lệ chứng khoán luôn đặt vấn đề này thành ưu tiên hàng đầu cần được chăm sóc.
Những người môi giới, những nhà kinh doanh và chuyên gia tiến hành buôn bán ở các
thị trường thứ cấp [thị trường thứ cấp có thể tổ chức thành các thị trường trao tay [OTC]

hoặc thành các trung tâm giao dịch có tổ chức [sở giao dịch], trong đó việc mua bán được
thực hiện trong một địa điểm trung tâm.
Những nhà môi giới tại sàn trực tiếp tham gia vào cuộc đấu giá mua bán chứng khoán,
họ chỉ nhận lệnh thông qua công ty của mình mà không trực tiếp quan hệ với khách hàng,
nhưng họ lại trực tiếp quyết định việc mua bán chứng khoán sao cho khách hàng thu
được lợi tức cao nhất. Do đó, việc đưa ra các quyết định của họ hết sức quan trọng, sao
cho vừa đáp ứng yêu cầu của khách hàng vừa phải tính toán để các lệnh của khách hàng
được thực hiện có lợi nhất.
Một công ty chứng khoán, tuỳ theo chức năng và điều kiện cho phép, có thể thoả mãn
một lệnh của khách hàng theo các phương thức sau đây:
+ Thực thi lệnh của khách hàng:
Làm trung gian thu xếp mua bán với tư cách là đại diện của khách hàng, mua bán cho
tài khoản của khách hàng;
Làm nhà buôn chứng khoán bằng cách đi mua lại của người tạo giá, kê giá lên thành
giá thực bán và bán lại cho khách hàng;
18
Nếu công ty chứng khoán đang có chứng khoán tồn kho thì có thể bán lại cho khách
hàng một lượng chứng khoán tồn kho theo lệnh đặt của khách.
+ Vai trò nghiệp vụ của hoạt động môi giới và kinh doanh chứng khoán:
Trong cùng một giao dịch, công ty chứng khoán hoặc chỉ đóng vai trò trung gian hoặc
chỉ đóng vai trò buôn lại chứng khoán, nhưng tuyệt đối không được lập lờ vai trò, nghĩa
là vừa làm giá vừa tính một khoản hoa hồng cho cùng một thực thi lệnh của khách đầu tư.
Cụ thể:
Hoạt động môi giới:
Đóng vai trò là đại diện, thay mặt khách hàng thực thi lệnh, không có chuyện lời lỗ;
Thu một khoản hoa hồng;
Phải công khai cho khách hàng biết vai trò và khoản hoa hồng định thu.
Hoạt động kinh doanh:
Đóng vai trò là chủ nhân, mua bán cho chính mình, lời ăn lỗ chịu;
Kê giá lên [bán ra], cắt giá xuống [mua vào];

Được phép làm giá, có sở hữu [mua hay bán] chứng khoán;
Công khai vai trò với khách, nhưng không cần phải báo các khoản thu lợi.
7.2.8. Quỹ đầu tư [investment funds]
a. Khái niệm
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ
các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản
khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty
quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.
b. Phân loại quỹ đầu tư
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân
loại khác nhau.
- Căn cứ vào nguồn vốn huy động:
+ Quỹ đầu tư tập thể [quỹ đại chúng]
Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là
cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung
cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu
rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.
+ Quỹ đầu tư cá nhân [quỹ thành viên]
19
Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các
nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các
tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng.
Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham
gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ.
- Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn
+ Quỹ đóng
Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy
động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà
đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc
việc huy động vốn [hay đóng quỹ], các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường

chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng
chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và
không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Hình thức quỹ đóng này mới được áp
dụng tại Việt Nam, đó là Quỹ đầu tư VF1 do công ty VFM huy động vốn và quản lý.
+ Quỹ mở
Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính
chất đặc thù của nó là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và
quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình
thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty
quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do
việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có
nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có
mặt tại Việt Nam.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ
+ Quỹ đầu tư dạng công ty
Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành
theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng
quản trị do các cổ đông [nhà đầu tư] bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt
động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty
quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản
lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư,
20
quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình
này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư
cách pháp nhân.
+ Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô
hình này quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập
quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra
trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản

của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp
đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện
và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những
người góp vốn vào quỹ [nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công
ty] và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất
từ khoản vốn đóng góp của họ.
c. Lợi ích của việc sử dụng Quỹ đầu tư
Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ bởi 05 yếu
tố:
o Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư
o Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt các yêu cầu về lợi nhuận
o Được quản lý chuyên nghiệp
o Giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan thẩm quyền
o Tính năng động của quỹ đầu tư.
Mỗi nhà đầu tư tham gia đầu tư vào quỹ sẽ sở hữu một phần trong tổng danh mục đầu tư
của quỹ. Việc nắm giữ này được thể hiện thông qua việc sở hữu các chứng chỉ quỹ đầu
tư.
7.2.9. Ngân hàng đầu tư
7.2.9.1. Khái niệm
NHĐT là ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mà hoạt động chủ yếu là lĩnh
vực chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến phát hành, bảo lãnh chứng khoán.
7.2.9.2. Đặc điểm
- Mục tiêu hoạt động: NHĐT hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán và
các dịch vụ liên quan nhằm mục đích lợi nhuận.
21
7.2.9.3. Nghiệp vụ
Ngân hàng đầu tư không phải là một ngân hàng trung gian nhận các món tiền gửi rồi
đem chúng cho vay như ngân hàng thương mại mà nó hoạt động chủ yếu với các nghiệp
vụ cơ bản sau:.
- Nguồn vốn: Các NHĐT là các NH “bán buôn” nhận tiền gửi với số lượng lớn hầu

hết là có kỳ hạn của các định chế tài chính, các công ty. Có quyền phát hành các chứng từ
có giá để huy động vốn hoặc đi vay các định chế tài chính khác.
- Chấp nhận hối phiếu trong thanh toán quốc tế. Mặc dù nghiệp vụ này được thực
hiện phổ biến bởi các NHTM, nhưng nó là nghiệp vụ đầu tiên của NHĐT và vẫn tiếp tục
phát triển cho đến bây giờ
Chấp nhận hối phiếu nghĩa là NH đứng ra bảo đảm khả năng thanh toán của hối phiếu
và là ngưởi có trách nhiệm đầu tiên trả tiền cho hối phiếu khi đến hạn
- Giao dịch chứng khoán: Các ngân hàng đầu tư là các hãng tham gia việc bán lần
đầu các chứng khoán trong thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường cấp một [nơi mà
một chứng khoán mới được phát hành do một cơ quan chính phủ, hay công ty bán ra để
vay vốn của các nhà đầu tư], trong khi đó những người môi giới chứng khoán và những
người buôn chứng khoán tham gia việc mua bán chứng khoán ở các thị trường thứ cấp .
Khi một công ty muốn tạo vốn theo phương thức phát hành chứng khoán, nó thường
thuê các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để giúp bán các chứng khoán của mình. Các
ngân hàng đầu tư tham gia việc bán chứng khoán như sau: Trước hết họ góp ý cho công
ty bán chứng khoán về việc phát hành trái khoán hoặc cổ phiếu. Nếu họ gợi ý rằng các
công ty này phát hành trái khoán, các ngân hàng đầu tư cho lời khuyên về thời hạn thanh
toán và các khoản tiền thanh toán lãi sẽ phải như thế nào. Khi công ty phát hành loại công
cụ tài chính nào đó, nó chào hàng cho công cụ đó cho những người đảm bảo [tức là
những ngân hàng đầu tư], các ngân hàng đầu tư bảo đảm với công ty giá các chứng khoán
đó và rồi bán chúng cho công chúng. Nếu quy mô của phát hành đó nhỏ, thì chỉ một ngân
hàng đầu tư bảo đảm phát hành [thường những ngân hàng đầu tư ban đầu được thuê để
góp ý cho phát hành đó], như vậy ngân hàng đầu tư giới hạn những rủi ro có thể có,
những người đảm bảo đó [các ngân hàng đầu tư] bán các chứng khoán này cho công
chúng rộng rãi bằng cách tiếp xúc trực tiếp với những người có thể mua chúng, ví dụ như
các NHTM, các công ty bảo hiểm và bằng cách thông báo trên các tờ báo.
22
Các NHĐT cũng tham gia kinh doanh chứng khoán như 1 thành viên trong sở giao dịch
chứng khoán trên thị trường thứ cấp [môi giới cho khách hàng hoặc kinh doanh cho bản
thân NHĐT qua đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp]

+ Đầu tư trực tiếp: bằng cách dùng vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào các công
ty bằng cách góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu phát hành đầu tiên, với tư cách là cổ đông
sáng lập
+ Đầu tư gián tiếp: dùng vốn của mình tham gia vào thị trường chứng khoán với tư
cách là 1 nhà kinh doanh chứng khoán, mua bán lại các chứng khoán nhằm hưởng chênh
lệch giá hay cổ tức các công ty.
- Tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán: Các hoạt động của các ngân hàng đầu
tư cũng như hoạt động của các thị trường sơ cấp [cấp 1] được điều hành một cách nghiêm
ngặt do ủy ban hoái đoái và chứng khoán. Ủy ban này được thành lập theo các đạo luật
về hối đoái và chứng khoán năm 1933 và 1934 để đảm bảo các thông tin đầy đủ tới được
các nhà đầu tư tương lai.
Các ngân hàng đầu tư hình thành các đầu mối để cung cấp chứng khoán mới trong thị
trường chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư bao tiêu những đợt phát hành mới các cổ
phiếu và trái phiếu công ty và các công trái địa phương. Trước tiên họ mua chứng khoán
mới và kế đó xếp theo thứ tự những người muốn mua để đưa vào danh mục của họ và bán
cho họ ở một mức giá cao hơn và có lợi hơn.
Chín loại hình tiêu biểu của tổ chức tài chính nêu trên hợp thành mạng lưới các đơn vị
tài chính phi ngân hàng hoạt động trên thị trường tài chính. Các đơn vị trên không phải là
ngân hàng, chúng không phải lo lắng như các ngân hàng trung gian về những biện pháp
điều tiết hoặc quản lý được áp dụng bởi ngân hàng trung ương như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
lãi suất chiết khấu, quy định lãi suất, quản lý hành chính, nhân sự khác…Tuy nhiên, hoạt
động của các tổ chức này gần giống các ngân hàng trung gian: nó cũng huy động tiền gởi
từ công chúng và cho vay hoặc đầu tư để kiếm lời. Ở các nước công nghiệp phát triển, nó
vẫn được phép mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, cho phép người gởi tiền dùng séc
hoặc thẻ tín dụng như các ngân hàng trung gian.
Các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng ra đời và phát triển rất sớm ở các nước
trên thế giới. Hoạt động của chúng kéo tất cả các cá nhân trong nền kinh tế vào cuộc, tận
dụng tất cả mọi tài khoản nhỏ nhất bị lãng phí của từng cá nhân vào việc phục vụ cho sự
23
sáng tạo ra của cải nhiều dạng cho đời sống con người. Chính vì thế mà chúng có sức

sống mãnh liệt với sự tồn tại dai dẳng ở hầu khắp các nước trên thế giới.
Khi thị trường tài chính ra đời, tất yếu sẽ đòi hỏi nhiều tổ chức tài chính khác nhau có
mặt. Trong đó, sự hình thành các tổ chức tài chính phi ngân hàng là điều cần thiết, không
những tốt cho thị trường tài chính, mà còn cung cấp vốn cho nền kinh tế phát triển, nâng
cao đời sống nhân dân.
Câu hỏi ôn tập chương 7
Câu 1: Định chế tài chính phi ngân hàng là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu các định chế
tài chính phi ngân hàng?
Câu 2: Anh [chị] hãy phân biệt:
- Quỹ đầu tư dạng đóng với quỹ đầu tư dạng mở,
- Công ty tài chính với công ty cho thuê tài chính
Câu 3: Thế nào là công ty tài chính? Trình bày những hoạt động cơ bản của công ty tài
chính? Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam?
Câu 4: Thế nào là công ty cho thuê tài chính? Trình bày những hoạt động cơ bản của
công ty cho thuê tài chính? Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam?
Câu 5: Thế nào là quỹ đầu tư? Lợi ích của nhà đầu tư khi tham gia vào các quỹ đầu tư là
gi?
Câu 6: Trình bày khái niệm, đặc điểm và các nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư?
24

Mục lục

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề