Đối tượng của mỹ học theo quan điểm hiện đại năm 2022

Mỹ học là bộ môn khoa học có tính lý thuyết về sự nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và trong xã hội.

Cuộc sống của con người luôn hiện hữu những vẻ đẹp xung quanh và được mỹ học nghiên cứu giải đáp. Vậy Mỹ học là gì ?là băn khoăn của rất nhiều độc giả.

Mỹ học là gì?

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra giải thích về Mỹ học là gì? như sau: “Mỹ học là bộ môn khoa học có tính lý thuyết về sự nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và trong xã hội. Thuật ngữ này là một phát kiến của triết gia người Đức Alexander Baumgarten, dùng để đặt tên cho tác phẩm Aestheticä [Mỹ học] của ông [1750–1758]. Ông dùng từ “mỹ học” cho lý thuyết về nghệ thuật tự do hay khoa học về cái đẹp nhận thức được.

Trong quá trình sử dụng và nghiên cứu, định nghĩa từ “mỹ học”, người ta ví mỹ học như cái cây có nhiều cành và luôn luôn phát triển vì mỹ học luôn tồn tại trong xã hội, trong thiên nhiên và nghệ thuật.”.

Trong thế kỷ 20, từ này được coi có nghĩa rộng hơn lý thuyết mỹ thuật bởi nó bao hàm cả lý thuyết về cái đẹp cụ thể trong tự nhiên và cái đẹp trừu tượng, ví dụ vẻ đẹp tinh thần hay trí tuệ – tuy nhiên cái đẹp đó phải là đối tượng cho sự nghiên cứu triết học hay khoa học. Nghệ thuật là nơi cao nhất tập trung mối quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp. Cái gì không đẹp không thể là nghệ thuật. Cái đẹp gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật nhưng đây là hai phạm trù khác nhau.

Có thể thấy mỹ học là khoa học của cái đẹp.

Nguồn gốc hình thành và sự phát triển của Mỹ Học

Thuật ngữ mỹ học [có người còn gọi là Thẩm mỹ học, esthétique] lần đầu tiên được nhà triết học người Đức A. Baumgarten [1714 – 1762] sử dụng vào năm 1735 trong tuyển tập các bài báo của ông nhan đề Những suy niệm triết học về các vấn đề liên quan tới sáng tác thi ca.

Đến năm 1750 và sau đó 1758, khi hai tập Mỹ học của A. Baumgarten lần lượt ra đời thì khái niệm này mới được dùng rộng rãi. Tuy nhiên, mỹ học như một ngành khoa học thì nảy sinh rất sớm trong lòng xã hội nô lệ ở phương Đông cũng như phương Tây. Lúc này, nó được coi như là một bộ phận của triết học – môn khoa học tìm hiểu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự nảy nở của các học thuyết mỹ học đặc biệt rầm rộ ở Trung Quốc và Hy Lạp thời cổ đại.

Trong  thời Xuân Thu – Chiến Quốc ở Trung Quốc, các khuynh hướng tự tưởng lớn như Khổng giáo, Lão giáo, Mặc giáo và Pháp gia… nảy sinh, luôn tranh giành ảnh hưởng với nhau. Các quan niệm về đạo đức, chính trị, thẩm mỹ… đua nhau phát triển. Đã xuất hiện không ít quan niệm thẩm mỹ độc đáo, rất  đáng lưu tâm tìm hiểu.

Hy Lạp thời cổ đại cũng từng sản sinh ra nhiều nhà triết học, nhiều nhà mỹ học lỗi lạc. Một trong những tên tuổi lừng danh là Heraklite [540 – 480 TCN]. Với ông, chân lý luôn là cụ thể. Ông cho rằng: “Lừa thích rơm hơn vàng”. Ông còn nói: “Nước biển sạch nhất đồng thời bẩn nhất. Đối với cá nó dùng để uống và nó vô hại. Còn đối với con người, nó không dùng để uống được và nó có hại”. Từ đó Heraklite chủ trương tính tương đối của cái đẹp. Ông nói: “Con khỉ đẹp nhất cũng là xấu so với loài người; và con người hoàn thiện nhất khi so với thần thánh cũng chỉ như một con khỉ”.

Có thể thấy các học thuyết mỹ học đã nảy sinh từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Tuy nhiên, mỹ học với tư cách là một ngành khoa học độc lập lại phải chờ tới thời cận đại. Một trong những yếu tố quan trọng giúp mỹ học tách dần ra khỏi triết học là việc xác lập được đối tượng đặc thù của ngành khoa học này.

Với những thông tin trên đây, chúng tôi tin rằng Quý khách hàng đã phần nào nắm được nội dung mỹ học là gì?

Lịch sử mỹ học là lịch sử ra đời, hình thành và phát triển các khuynh hướng cơ bản trong mỹ học – mỹ học duy vật và mỹ học duy tâm trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử phát triển xã hội. Mặc dù, vấn đề duy vật duy tâm trong mỹ học hiện đại ngày nay ít nhiều mất đi yếu tố truyền thống của nó xét về mặt triết học trong mỹ học. Vì mỹ học là một khoa học độc lập. Nhất là mỹ học hiện đại. Cố nhiên, do kết quả đấu tranh giữa các quan điểm cơ bản trong lịch sử đã hình thành các quan niệm khác nhau về đối tượng của mỹ học như một quá trình tất yếu.

Mỹ học hiện đại đã giải thích qúa trình phát triển của mỹ học, của nghệ thuật thông qua quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực dưới các hình thức khác nhau. Về cơ bản là hai khuynh hướng mỹ học. Đó là mỹ học Mác – Lênin và mỹ học tư sản.

Mỹ học Mác – Lênin khẳng định sự ra đời của các quan hệ thẩm mỹ, của nghệ thuật đều gắn liền với quá trình lao động và hoạt động thực tiễn. Đây là quan điểm duy vật biện chứng và lịch sử của triết học Mác – Lênin khi phân tích đời sống xã hội để khẳng định vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại, vận động và phát triển của xã hội; bao gồm tất cả các lĩnh cực tinh thần. Trong đó có ý thức thẩm mỹ. C. Mác viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất của xã hội quyết định các qúa trình sinh hoạt xã hội, chính trị tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ qui định ý thức của họ”[2].

Mỹ học tư sản cũng xuất phát từ thế giới quan và phương pháp luận của các trào lưu triết học tư sản. Chủ yếu vẫn là khynh hướng triết học nhân bản để hình thành những quan điểm mỹ học nhân bản chủ nghĩa. Đó là mỹ học về nhân cách về tính dục của Phơrớt và mỹ học hiện sinh của Kiếckêga và Giăng Pôn Sác.

Mặc dù có sự khác nhau và mặt thế giới quan và phương pháp luận giữa Mỹ học Mác – Lênin và mỹ học tư sản khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất và các qui luật của quan hệ thẩm mỹ. Song, mỹ học hiện đại đều khẳng định mỹ học nghiên cứu toàn bộ các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, bao gồm cả nghệ thuật với tính cách là hình thái cao nhất của các quan hệ thẩm mỹ.

Xét về nội dung, đối tượng nghiên cứu của mỹ học là nghiên cứu các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, xét về chủ thể, khách thể và nghệ thuật:

Chủ thể thẩm mỹ, một mặt với tính cách là quá trình cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ; mặt khác là các hoạt động của chủ thể thẩm mỹ nhằm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ tình cảm thẩm mỹ – thị hiếu thẩm mỹ – lý tưởng thẩm mỹ của cá nhân và xã hội. Chỉ có các nhu cầu về cái đẹp, tình cảm về cái đẹp – thị hiếu về cái đẹp – lý tưởng thẩm mỹ về cái đẹp là đối tượng của mỹ học, còn các nhu cầu khác trong hoạt động xã hội của con người là đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác.

Khách thể thẩm mỹ với tính cách là đối tượng thẩm mỹ. Đó là những những hiện tượng thẩm mỹ khách quan như cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Trong đó cái đẹp giữ vị trí trung tâm. Bởi vì, cái bi, cái hài, cái cao cả sở dĩ mang yếu tố thẩm mỹ vì chúng là các hình thức tồn tại khác nhau của cái đẹp và trong mối quan hệ với cái đẹp.

Nghệ thuật với tính cách là hình thái cao nhất của quan hệ thẩm mỹ, cũng bao gồm sự hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật nhằm thoả mãn nhu cầu tình cảm – thị hiếu – lý tưởng nghệ thuật của cá nhân và xã hội. Nói đến nghệ thuật là nói đến các qui luật của tình cảm, của cái đẹp. Sự phản ánh cái xấu trong nghệ thuật cũng phải gắn với lý tưởng về cái đẹp. Do đó, cái đẹp đã làm cho nghệ thuật thể hiện được bản chất, đặc trưng và chức năng của nó và đồng thời nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mỹ học.

Mỹ học là khoa học mang tính chất triết học nghiên cứu những qui luật chung nhất của quan hệ thẩm mỹ. Trong đó cái đẹp là trung tâm, hình tượng là đặc trưng cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất của quan hệ thẩm mỹ.

– Mỹ học là khoa học có tính triết học[3] nghiên cứu những qui luật chung nhất của quan hệ thẩm mỹ?

Với tư cách là một khoa học nhân văn, mỹ học mang tính chất triết lý khi tập trung nghiên cứu ý thức thẩm mỹ chi phối sự khám phá và sáng tạo của con người theo qui luật của cái đẹp.

Mỹ học nghiên cứu các qui luật chung của quan hệ thẩm mỹ – đó là các hiện tượng thẩm mỹ của thế giới hiện thực và các qui luật của nghệ thuật với tính chất là khách thể trong mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Qui luật về sự cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo nghệ thuật với tính chất là chủ thể trong mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Qui luật của giáo dục thẩm mỹ, sự hình thành mối quan hệ thẩm mỹ đúng đắn cho con người.

– Cái đẹp là trung tâm của quan hệ thẩm mỹ?

Cái đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản, một hiện tượng thẩm mỹ khách quan. Nó không tồn tại thuần tuý trừu tượng độc lập với cái bi, cái hài và cái cao cả. Nói một cách khác, không thể nghiên cứu cái bi, cái hài và cái cao cả ngoài các phương diện khác nhau của cái đẹp. Hơn nữa, xét về mặt chủ quan của các quan hệ thẩm mỹ xét cho cùng là quá trình con người cảm thụ, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ, sáng tạo nghệ thuật theo qui luật của cái đẹp.

– Hình tượng là đặc trưng cơ bản của quan hệ thẩm mỹ?

Khác với các hình thức khác trong hoạt động nhận thức của con người, thì ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Trong đó, hình tượng là thuộc tính chung, phổ biến của các hiện tượng thẩm mỹ trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật. Hơn nữa, xét về mặt chủ quan của mối quan hệ thẩm mỹ trong quá trình con người cảm thụ, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ và sáng tạo nghệ thuật thì tính hình tượng là phương thức phản ánh đặc thù của của ý thức thẩm mỹ.

+ Hình tượng thẩm mỹ trong tự nhiên [lý, hóa, sinh của cái đẹp, cái cao cả]

+ Hình tượng thẩm mỹ trong xã hội [các quan hệ xã hội và bản thân con người]

+ Hình tượng thẩm mỹ trong nghệ thuật. Trong các loại hình nghệ thuật: Kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc …

– Nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất của quan hệ thẩm mỹ?

Kết cấu của quan hệ thẩm mỹ bao gồm khách thể thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ và nghệ thuật. Trong đó, nghệ thuật không chỉ là hình thái ý thức xã hội đặc thù của ý thức thẩm mỹ trong quá trình phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực; mà sáng tạo nghệ thuật là sáng tạo có khả năng thoả mãn cao nhất những nhu cầu thẩm mỹ của con người.

Nghệ thuật không chỉ phản ánh hiện thực thẩm mỹ mà còn sáng tạo ra thế giới đặc thù của hiện thực thông qua các hình thái khác nhau của nghệ thuật.

Các tác phẩm nghệ thuật có khả năng thỏa mãn cao nhất những nhu cầu thẩm mỹ của con người.

Nhu cầu thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ và nhu cầu thưởng thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật.

Ví dụ: Một số các loại hình nghệ thuật: âm nhạc, điện ảnh…

Mỹ học đại cương 

Video liên quan

Chủ Đề