Hiệu quả sản xuất kinh doanh là gì

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

SẢN XUẤT KINH DOANH 1.1. Khái niệm về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất và kinh doanh luôn gắn liền với xã hội loài người, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhucầu cũng như thị hiếu của thị trường để nhằm đưa ra những chiến lược đúng đắn đạt được những mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.Hoạt đông kinh doanh là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của chủ thể kinh doanh trên thị trường.Hoạt động kinh doanh có các đặc điểm sau: •Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.• Kinh doanh phải có sự vận động của đồng vốn: Vốn là yếu tố quyếtđịnh cho công việc kinh doanh, là cơ sở đánh giá tiềm lực của doanh nghiệp. Khơng có vốn thì khơng thể có hoạt động kinh doanh. Chủ thể kinh doanh sửdụng vốn để mua nguyên liệu, thiết bị sản xuất, thuê lao động… •Kinh doanh cần phải hướng tới thị trường, các chủ thể kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là quan hệ với các bạn hàng, với chủ thểcung cấp đầu vào, với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh và với Nhà nước.Nguyễn Kiên Hải Quản Lý Kinh Tế 46ACác mối quan hệ này giúp cho doanh nghiệp duy trì hoạt động kinh doanh đưa doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển.• Mục đích chủ yếu và bao trùm của hoạt động kinh doanh là lợinhuận.Một số quan điểm cho rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự so sánh giữa đầu vào và đầu ra, giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được. Do vậy, thướcđo hiệu quả là sự tiết kiệm chi phí lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là việc tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên các nguồn lực sẵncó. Ngồi ra, khi phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh còn được phân thành hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.Hiệu quả kinh tế: thể hiện quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó theo mục tiêu đã đề ra.Hiệu quả xã hội: đó là sự phản ánh kết quả thực hiện các mục tiêu về mặt xã hội như: giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nộp ngân sách Nhà nước,bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường kinh doanh … 1.1.3. Khái niệm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh:Ngày nay ở nước ta, mục tiêu lâu dài của các doanh nghiệp là kinh doanh có hiệu quả và tối đa hố lợi nhuận. Chứ khơng phải như thời kỳ baocấp các doanh nghiệp Chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất theo chỉ tiêu của Nhà nước đặt ra, vì thế nên khơng có tính cạnh tranh khốcliệt như bây giờ. Môi trường kinh doanh ln ln biến động đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh thích hợp. Kinh doanh là mộtnghệ thuật cần có sự tính tốn nhanh nhạy, khéo léo và biết nhìn nhận vấn đềNguyễn Kiên Hải Quản Lý Kinh Tế 46Aở tầm lâu dài, có chiến lược. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Để có thể hiểu được khái niệm hiệu quả hoạtđộng sản xuất kinh doanh một cách thấu đáo cần xem xét đến khái niệm hiệu quả kinh tế của một hiện tượng.Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốnđể đạt được mục tiêu xác định Nó biểu hiện mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được và tồn bộchi phí bỏ ra để có kết quả đó, phản ánh được chất lượng của hoạt động kinh tế đó.

Hiệu quả kinh doanh là gì? Tại sao phải phân tích hiệu quả kinh doanh? Cùng tìm hiểu định nghĩa về hiệu quả kinh doanh và ý nghĩa việc phân tích hiệu quả kinh doanh.

Hiệu quả kinh doanh là gì?

Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thực chất chính là một chỉ tiêu kinh tế được tổng hợp lại nhằm phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất.

Hiệu quả kinh doanh còn thể hiện sự vận dụng khéo léo của các nhà quản trị doanh nghiệp giữa lý luận và thực tế nhằm khai thác tối đa các yếu tố của quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhân công để nâng cao lợi nhuận.

Vậy chúng ta có thể đúc kết được rằng:

Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn vật lực, tài chính của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất.

Tìm hiểu về: Kế hoạch kinh doanh online hoàn hảo không thể bỏ qua

Bản chất của hiệu quả kinh doanh

Một bản đánh giá khái quát về kết quả kinh doanh

Trong doanh nghiệp, mọi hoạt động của tổ chức đều nhằm mục đích đạt được hiệu quả cao nhất trên mọi phương diện kinh tế, xã hội…

Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chủ yếu xét trên phương diện kinh tế có quan hệ với hiệu quả xã hội và môi trường.

Thực chất, hiệu quả kinh doanh là sự so sánh giữa các kết quả đầu ra với các yếu tố đầu vào của một tổ chức kinh tế được xét trong một kỳ nhất định, tùy theo yêu cầu của các nhà quản trị kinh doanh ngoại trừ các 

Các chỉ tiêu tài chính phản ánh hiệu quả kinh doanh là cơ sở khoa học để đánh giá trình độ của các nhà quản lý, căn cứ đưa ra quyết định trong tương lai. Tuy nhiên độ chính xác của thông tin từ các chỉ tiêu hiệu quả phân tích lại phụ thuộc vào nguồn số liệu, thời gian và không gian phân tích.

Hiệu quả kinh doanh có thể được khái quát bằng công thức:

[1]  Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra / Yếu tố đầu vào

Hoặc

[2]  Hiệu quả kinh doanh = Yếu tố đầu vào / Kết quả đầu ra

Kết quả đầu ra và yếu tố đầu vào có thể đo bằng thước đo hiện vật, thước đo giá trị tùy theo mục đích của việc phân tích.

- Dựa vào Báo cáo kết quả kinh doanh, các chỉ tiêu kết quả đầu ra bao gồm: Tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ, tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Dựa vào Bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu yếu tố đầu vào bao gồm: Tổng tài sản bình quân, tổng nguồn vốn chủ sở hữu bình quân, tổng tài sản dài hạn bình quân, tổng tài sản ngắn hạn bình quân. Hoặc các chi phí, giá vốn hàng bán, chi phí hoạt động trên báo cáo kết quả kinh doanh…

Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh thường thể hiện một kỳ phân tích, do vậy số liệu dùng để phân tích các chỉ tiêu này cũng là kết quả của một kỳ phân tích. Nhưng tùy theo mục tiêu của việc hân tích và nguồn số liệu sẵn có, khi phân tích có thể tổng hợp các số liệu từ thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị, khi đó các chỉ tiêu phân tích mới đảm bảo chính xác và có ý nghĩa.

Để đánh giá chính xác, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh cần được xem xét trong mối quan hệ với hiệu quả xã hội và quan điểm về hiệu quả.

Phân tích hiệu quả kinh doanh và ý nghĩa

Ý nghĩa của phân tích hiệu quả kinh doanh là gì?

Phân tích hiệu quả kinh doanh

Nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng của các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao một cách bền vững. Do vậy à việc phân tích hiệu quả kinh doanh là một nội dung cơ bản của phân tích tài chính nhằm góp phần cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển không ngừng.

Mặt khác, hiệu quả kinh doanh còn là chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần tăng thêm sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên thị trường.

Ý nghĩa của phân tích hiệu quả kinh doanh

Thông tin từ các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh cung cấp cho mọi đối tượng quan tâm để có cơ sở khoa học đưa ra các quyết định hữu ích cho các đối tượng khác nhau. Các đối tượng đó bao gồm:

- Ý nghĩa đối với nhà quản trị doanh nghiệp [giám đốc, chủ tịch đội đồng quản trị và trưởng các bộ phận]: Thu nhận các thông tin từ việc phân tích để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn, chi phí, từ đó phát huy những mặt tích cực và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất để khai thác tiềm năng sử dụng của từng yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp.

- Ý nghĩa đối với các nhà đầu tư [cổ đông, các công ty liên doanh]: Thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn, lợi nhuận, cổ tức… để tiếp thêm sức mạnh đưa ra các quyết định đầu tư thêm, hay rút vốn nhằm thu lợi nhuận cao nhất và đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư.

- Ý nghĩa đối với các đối tượng cho vay [ngân hàng, kho bạc, công ty tài chính]: Thông qua các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh để có cơ sở khoa học đưa ra các quyết định cho vay ngắn hạn, dài hạn, nhiều hay ít vốn nhằm thu hồi được vốn và lãi, đảm bảo an toàn cho các công ty cho vay.

- Với các cơ quan chức năng của Nhà nước [cơ quan thuế, kiểm toán nhà nước, cơ quan thống kê]: Thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn ngân sách để kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với ngân sách Nhà nước, thực hiện luật kinh doanh, các chế độ tài chính có đúng không, đánh giá tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp... Thông qua phân tích để kiến nghị với các cơ quan chức năng góp phần hoàn thiện chế độ tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển.

Thông tin phân tích hiệu quả kinh doanh còn cung cấp cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp nắm được thực chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai, từ đó họ có thể an tâm công tác và dốc sức tâm huyết với nghề nghiệp.

Tóm lại, thông tin phân tích hiệu quả kinh doanh rất hữu ích với nhiều đối tượng khác nhau, từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh có lợi cho từng đối tượng.

Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải làm ăn có hiệu quả. Đây là một sụ thực hiển nhiên, một chân lý và để hiểu rõ điều này thì trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu về khái niệm hiệu quả.

Ngày nay, người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về hiệu quả. Ở mỗi góc độ, lĩnh vực khác nhau thì hiệu quả cũng được xem xét nhìn nhận khác nhau và thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì chúng ta xem xét vấn đề hiệu quả trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng ta có 3 phạm tru: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.

Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố, từng ngành thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả thu về đề cập trong khái niệm này có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản phẩm công nghiệp… Hiệu quả kinh tế thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì ta có hai phạm trù hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại hiệu quả này có vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Hiệu quả chính trị, xã hội phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân.

Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã hội. Đây là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một cách liên tục và lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

Dưới góc độ của doanh nghiệp thì ta có khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh có bản chất của hiệu quả kinh tế và cũng có bản chất của hiệu quả chính trị, xã hội [đời sống người lao động…]. Dưới đây là một số quan điểm về hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị, xã hội. Nếu áp dụng những quan điểm đó vào phạm vi của doanh nghiệp thì ta có thể coi đó là các quan điêmr về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua một số quan điểm này chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Các nhà kinh tế và thống kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu là không giống nhau.

Quan điểm 1:

Trước đây người ta coi "Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu thụ hàng hóa"1 [Xem trang 9]. Theo quan điểm này thì hiệu quả là tốc độ tăng của kết quả đạt được như: Tốc độ tăng của doanh thu, của lợi nhuận. Như vậy hiệu quả được đồng nhất với các chỉ tiêu kết quả hay với nhịp độ tăng của các chỉ tiêu ấy. Quan điểm này thực sự không còn phù hợp với điều kiện ngày nay. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất [đầu vào của quá trình sản xuất]. Nếu hai doanh nghiệp có dùng một kết quả sản xuất tuy có hai mức chi phí khác nhau, theo quan điểm này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của chúng là như nhau. Điều này thật khó chấp nhận.

Theo quan điểm này thì "Hiệu quả được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm mà xã hội hoặc thu nhập quốc dân"2 [Xem trang 9]. Xét trên phạm vi của doanh nghiệp, thì theo quan điểm này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhịo độ tăng giá trị tổng sản lượng là một. Nhìn trên một góc độ nào đó thì quan điểm này cũng gần giống như quan điểm một. Nó cũng không đề cập tới chi phí bỏ ra để đạt được giá trị tổng sản lượng đó. Nếu tốc độ tăng của chi phí sản xuất được các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn nhịp độ tăng giá trị tổng sản lượng thì sao. Hơn nữa, việc chọn năm gốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả so sánh. Với mỗi năm gốc khác nhau chúng ta lại có mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu.

Đây là quan điểm về hiệu quả được trình bày trong giáo trình kinh tế học của P.Samueleson và W.Nordhmas [Viện quan hệ quốc tế - Bộ ngoại giao xuất bản, bản dịch tiếng Việt năm 1991]. Theo quan điểm này thì "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi sản xuất không thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản xuất của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó"3 [Xem trang 275]. Nhìn nhận quan điểm này dưới giác độ doanh nghiệp thì tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh nghiệp được xác định bằng giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng cao nhất có thể đạt được ứng với tình hình công nghệ và nhân công nhất định. Theo quan điểm này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức "tối đa" về sản lượng. Tỷ lệ so sánh càng gần 1 càng có hiệu quả. Mặt khác ta thấy quan điểm này tuy đã đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy đủ.

Tóm lại quan điểm này là chính xác, độc đáo nhưng nó mang tính chất lý thuyết thuần tuý, lý tưởng, thực tế rất khó đạt được.

Quan điểm này cho rằng "Hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải là giá trị"4 [Xem trang 9]. Theo tác giả của quan điểm này, mức độ thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ không phải giá trị trừu tưoựng nào đó. Tuy nhiên quan điểm này gặp phải trở ngại là khó [nếu không muốn nói là không thể] tính được tính hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra. Và nếu vậy thì chúng ta không thể so sánh được tính hữu ích giữa các sản phẩm, do đó cũng không đánh giá được tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,.

Quan điểm này cho rằng "Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại lượng kết quả và chi phí"5 [Xem trang 253].

Công thức biểu diễn phạm trù này:

K: Phần gia tăng của kết quả sản xuất

C: Phần gia tăng của chi phí sản xuất

H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh

Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn vẹn. Nó chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia tăng của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề cập toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét trên quan điểm triết học Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mỗi quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. Sản xuất kinh doanh không nằm ngoài quy luật này, các yếu tố "tăng thêm" giảm đi có liên hệ với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp các động tới kết quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là kết quả tổng hợp của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sanr xuất kinh doanh. Quan điểm này chỉ đề cập đến phần tăng thêm trong khái niệm hiệu quả là chưa đầy đủ, thiếu chính xác/

Theo quan điểm này "Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết qủa đó"6 [Xem trang 253].

Khái niệm chung về hiệu quả kinh tế: "Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng [hoặc một quá trình kinh tế] phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực [nhân tài, vật lực, tiền vốn] để đạt được mục tiêu xác định"7 [Xem trang 9].

Từ khái niệm trên ta có công thức để biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh.

[2]

H: Hiệu quả sản xuất kinh doanh.

K: Kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.

C: Chi phí của quá trình sản xuất kinh doanh [chi phí bỏ ra để đạt được kết quả K].

Như vậy ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh [doanh thu, lợi nhuận] thì phản ánh số lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá hoạt động của một doanh nghiệp thì phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu quả của doanh nghiệp đó.

Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện "động" của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể thực hiện được trong sự vận động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực [lao động, thiết bị, máy móc, tiền, nguyên vật liệu] để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian.

Các Mác đã cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quản lý đó. Con người tạo ra của cải vật chất bằng sức lao động. Lao động được đo lường bằng thời gian. Với một mục tiêu nhất định con người phải thực hiện trong một thời gian lao động ít nhất hay nói một cách khác thì trong một thời gian lao động nhất định kết quả đạt được phải cao nhất.

Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu [thời gian hao phí lao động thấp nhất]. Điều này có nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết quả tối đa hoặc ngược lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.

Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực tiễn đã tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, khi đó đã coi kết quả là mục tiêu mục đích và coi hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp luận giải quyết vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.

Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm… Như thế kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả [đầu ra] và chi phí [các nguồn lực đầu vào] để đánh giá hiệu quả sản kinh doanh. Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn là giữa "đầu vào" và "đầu ra" không có cùng một đơn vị đo lường, còn việc sử dụng đơn vị giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường tiền tệ. Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh được xacs định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được từ hoạt động sản xuất [doanh nghiệp sản xuất] hoặc kinh doanh [doanh nghiệp thương mại, dịch vụ…] và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.

Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít khi các doanh nghiệp xác định được chính xác các kết quả mà doanh nghiệp thu được ở một thời điểm nào đó do các quá trình tạo ra kết quả diễn ra trong các doanh nghiệp thường có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,… Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không phải chỉ tạo ra kết quả [sản phẩm, dịch vụ] mà còn phải bán được các kết quả đó và quá trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng lại tiêu thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được kết quả [mục tiêu]. Nếu xét trên góc độ giá trị, đại lượng kết quả của sản xuất kinh doanh không phải là đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị [đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường]. Mặt khác, chính hoạt động của con người là luôn nhằm đến và đạt đến kết quả nhất định, song không phải lúc nào con người cũng nắm chắc được, biết hết được các kết quả do chính hành động của họ. Như vậy, phạm trù kết quả là một phạm trù phức tạp mà không phải lúc nào chúng ta cũng đánh giá đầy đủ được nó.

Việc xác định đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. Nếu xét trân phương diện lý thuyết thì chi phí tính bằng đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng tài nguyên, chi phí "thực" để tạo ra kết quả của doanh nghiệp song điều đó không thể xác định được trong thực tiễn. Ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị nguyên nhiên vật liệu mỗi loại cũng không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi đó, ở mọi doanh nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên quan đến một quá trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh khác nhau. Điều này dẫn tới việc xác định hao phí một cách chính xác vào một quá trình kinh doanh cụ thể gặp nhiều khó khăn. Nếu xét trên phương diện giá trị, chi phí kinh doanh thường được hiểu là giá trị của toàn bộ tài nguyên đã sử dụng trong kinh doanh. Bản thân việc sử dụng các yếu tố đầu vào dưới dạng chi phí sử dụng tài nguyên đã là không xác định được trong tính toán bằng tiền, độ phức tạp và thiếu chính xác còn lớn hơn nhiều vì nó hàm chứa rất nhiều yếu tố chủ quan của con người [chi phí là hi phí tính toán]. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh con người ngày càng đưa chi phí tính toán tiếp cận đến gần chi phí kinh tế hơn. Hơn nữa, không chỉ những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới đem lại kết quả cho doanh nghiệp, mà còn rất nhiều chi phí cho hoạt động xã hội như: Giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ… có tác động không nhỏ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí này rất khó tính toán được trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. Mặt khác, trong thực tế khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường hướng vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến xu hướng chi phí biên cá nhân [MPC] thấp hơn chi phí biên xã hội [MSC]. Điều này dẫn đến sự tách biệt giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội. Để rút ngắn sự tách biệt này, các biện pháp can thiệp vĩ mô của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết. Cũng cần thấy rằng khi doanh nghiệp ra quyết định sản xuất kinh doanh theo hướng giảm chi phí biên cá nhân so với chi phí biên xã hội sẽ tạo ra ảnh hưởng ngoại ứng đối với các doanh nghiệp sản xuất khác cũng như đối với người tiêu dùng và trong nhiều trường hợp cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân doanh nghiệp với tư cách là một thành viên trong đó. Nhiều doanh nghiệp cố tình giảm thiểu chi phí cho việc xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường và sự ô nhiễm ngày một tăng ảnh hưởng đến cả khu vực rộng lớn và cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp pháp luật. Như thế kết quả và hiệu quả đạt được trước mắt của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm chí phi hiệu quả kinh tế nếu xét trong thời gian dài.

Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường nhất là trong một nền kinh tế mở. Do vậy mà để thấy được vai trò của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế trước hết chúng ta nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của doanh nghiệp trong thị trường.

Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hóa. Nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan nào. Bởi vì, thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, thị trường còn có một vai trò quan trọng trong việc điều tiết và lưu thông hàng hóa. Thông qua nó các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên thị trường.

Trên thị trường luôn luôn tồn tại các quy luật vận động của hàng hóa, giá cả, tiền tệ… như các quy luật thặng dư, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh… Các quy luật này tạo thành một hệ thống thống nhất và hệ thống này chính là linh hồn là cha đẻ của cơ chế thị trường. Như vậy, cơ chế thị trưởng được hình thành bởi sự tác động tổng hợp của các quy luật trong sản xuất, trong lưu thông trên thị trường. Thông qua các quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường cơ chế thị đường tác động đến việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và làm thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành… Nói cách khác cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối, phân phối lại các nguồn trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách tối ưu nats.

Tóm lại, sự vận động đa dạng, phức tạp của cơ chế thị trường dẫn đến sự biểu hiện gần đùng nhu cầu thị trường của xã hội. Song các doanh nghiệp không được đánh giá quá cao hoặc tuyệt đối hóa vai trò của thị trường, coi cơ chế thị trường là hoàn hảo. Bởi lẽ thị trường luôn chứa đựng những khuyết tật của nó như: Đầu cơ, lừa lọc, độc quyền… Do vậy mỗi doanh nghiệp phải xác định được cho mình một phương thức hoạt động riêng phù hợp với doanh nghiệp. Cụ thể là:

Doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên hai thị trường đầu vào và đầu ra để đạt một kết quả cao nhất và kết quả này không ngừng phát triển nâng cao hiệu quả về mặt chất cũng như về mặt lượng. Như vậy, trong cơ chế của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò đối với doanh nghiệp.

- Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả kinh tế trong kinh doanh là mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VII nếu rõ: "Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".

Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đảm bảo cho tổng sản phẩm xã hội c+v+m và thu nhập quốc dân m+v đủ để thỏa mãn 2 yêu cầu sau:

Một là: Bù đắp đầy đủ, kịp thời chi phí về tư liệu sản xuất và chi phí lao động đã hao phí [c+v] trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Hai là: Bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân có được một bộ tích lũy quan trọng để tái sản xuất mở rộng và đáp ứng những nhu cầu của xã hội.

- Thứ hai: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường trong khi đó lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt này, đồng thời là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp là: Luôn tồn tại, phát triển một cách vững chắc. Do vậy thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng nâng lên. Nhưng trong điều kiện vốn và các kỹ thuật chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận bắt buộc các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong công việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hóa, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội đồng thời tạo ra tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên đảm bảo thu nhập, bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như là một tất yếu.

Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là một yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng doanh nghiệp lại là một yếu tố quan trọng. Bởi vì sự phát triển, mở rộng của doanh nghiệp không những đòi hỏi sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn đòi hỏi sự tích lũy đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng quy luật phát triển. Như vậy để phát triển và mở rộng doanh nghiệp mục tiêu lúc này không còn là đủ bù đắp chi phí bỏ ra để phát triển quá trình tái sản xuất giản đơn mà phải đảm bảo có tích lũy đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng và một lẫn nữa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được nhấn mạnh.

- Thứ ba: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh và sự tiến bộ trong kinh doanh.

Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không phải là các mặt hàng mà cạnh tranh cả chất lượng, giá cả… Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng cũng có thể bóp chết doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Để được điều này thì các doanh nghiệp phải có hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt, giá cả hợp lý.

Mặt khác hiệu quả sản xuất kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng hàng hóa bán, chất lượng không ngừng được hoàn thiện nâng cao… Như vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả, chính là hạt nhân cơ bản của thắng lợi trong cạnh tranh. Và các dạng cạnh tranh nhau tức là không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là con đường của doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của mình.

Video liên quan

Chủ Đề