Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 21 nhân mạnh con đường của cách mạng miền Nam là

 Lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ muốn thay chân Pháp biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc, ngăn chặn làn sóng đấu tranh cách mạng ở khu vực Đông Nam Á. Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, bình định miền Nam với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”, ra đạo luật 10/59, thực hiện khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, thẳng tay đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta. “Chỉ trong 4 năm [từ 1955-1958], ở Nam Bộ chỉ còn khoảng 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng Liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch giết hại, 12 huyện không còn cơ sở đảng”[1]. Chế độ thống trị của Mỹ-Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế độ độc tài, hiếu chiến. Chúng ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, mưu tính chia cắt lâu dài nước ta. Đứng trước những diễn biến phức tạp đó, lịch sử đặt ra cho Đảng Lao động Việt Nam một yêu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi.

         Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng [7/1954] nhận định: “Hiện nay, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Cho nên, mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.[2] Từ đó, Đảng ta chỉ đạo “phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có thể có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng”[3]. Trải qua nhiều hội nghị, chủ trương của Đảng về chiến lược cách mạng giải phóng miền Nam từng bước được hình thành.

         Trong tình hình mới, nhiệm vụ của Đảng đối với cách mạng miền Nam là “lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời, phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng; chống những hành động tiến công của địch”[4]. Mục đích của cách mạng miền Nam “là phải đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập để giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc”[5]. Trước yêu cầu đó, tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập do đồng chí Lê Duẩn - Ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư. Tháng 12/1956, đường lối cách mạng miền Nam được thông qua, trong đó khẳng định “để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng ngoài con đường cách mạng không có con đường nào khác”[6]. Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương khóa II [12/1957] nhấn mạnh “khi ta đồng thời chấp hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm”[7].

         Trên cơ sở nhận định tình hình miền Nam dưới chế độ Mỹ-Diệm, Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm của Đảng [01/1959] đã vạch rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[8]. Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Hội nghị nhận định “đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[9]. Nghị quyết nêu rõ cần tăng cường công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.

         Sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa ở Bắc Ái [2/1959], Trà Bồng [8/1959], Tua Hai [1/1960], đặc biệt là phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre. Phong trào “Đồng khởi” như tức nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Đến cuối năm 1960, về cơ bản cách mạng đã làm tan rã trên 2/3 bộ máy chính quyền địch ở nông thôn, “làm chủ được 600 trong tổng số 1298 xã, trong đó có 116 xã được hoàn toàn giải phóng. Ở các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3829 thôn được giải phóng. Tây Nguyên có tới 3200 trong tổng số 5721 thôn không còn chính quyền ngụy”[10]. Dưới sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Công tác xây dựng đảng, phát triển đảng viên được đẩy mạnh. Hàng nghìn chi bộ được khôi phục, phát triển ở tất cả các đảng bộ miền Tây, miền Trung và miền Đông Nam Bộ. Số lượng đảng viên tăng nhanh từ 7.641 đảng viên [cuối năm 1959] đã tăng lên 12.946 đảng viên [cuối năm 1960]. Sự khôi phục nhanh chóng của các tổ chức cơ sở đảng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ và động lực quan trọng cho các lực lượng chính trị, vũ trang miền Nam phát triển. “Ở miền Đông Nam Bộ, đã xây dựng được 40 trung đội tập trung và 60 đội tự vệ vũ trang; miền Trung Nam Bộ có 36 trung đội và 68 đội tự vệ xã; miền Tây Nam Bộ xây dựng được 37 trung đội và 150 đội tự vệ xã”[11]. Có thể thấy, phong trào “Đồng khởi” đã giáng đòn chí tử vào chế độ Mỹ-Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.

         Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” chính là “biểu hiện cụ thể, sinh động của sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết 15 vào thực tiễn đấu tranh của các cấp ủy Đảng và nhân dân miền Nam […] đưa cách mạng thoát khỏi thế hiểm nghèo, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, tạo tiền đề quan trọng cho quân và dân ta đánh bại các chiến lược quân sự của Mỹ trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến”[12] góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

[1] Lê Mậu Hãn [Chủ biên], Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.159-160

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, h.2001. tr.172

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.82-83

[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr.205

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.787

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.785

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.771-772

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.81

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.85

[10] Đinh Xuân Lâm [Chủ biên], Nguyễn Xuân Minh, Trần Bá Đệ, Lịch sử 12, Nxb Giáo dục, H.2006, tr.131

[11] Phong trào Đồng khởi-50 năm nhìn lại, Nxb Chính trị quốc gia, H.2010, tr.52

[12] Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Phong trào Đồng khởi miền Nam 1960-Bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước, Tạp chí  Lịch sử Đảng, số 350 [1/2020], tr.11

Hiệp định Paris được ký kết mở ra thời cơ lớn để quân và dân ta tiếp tục hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Buộc phải ký Hiệp định Paris, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền nam, song chính quyền Nixon vẫn âm mưu tiếp tục dùng quân đội và chính quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền nam...Vì vậy, trước và sau ngày ký Hiệp định, đế quốc Mỹ lén lút tuồn vũ khí, gài  nhân  viên, cố vấn ở lại làm nhiệm vụ chỉ huy, hỗ trợ chính quyền và quân đội Sài Gòn, đồng thời duy trì lực lượng "ngăn đe" ở các vùng phụ cận chung quanh Việt Nam, tiếp tục xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt hòng ngăn chặn sự phát triển sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Mục tiêu trước mắt của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn là lấn chiếm vùng giải phóng, bình  định  vùng chiếm đóng, tiêu diệt một bộ phận lực lượng ta, đẩy lực lượng ta ra sát biên giới, loại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam và Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền nam.

Ðể thực hiện mục tiêu này, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm vùng giải phóng.

Từ sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực, Ðảng ta dự kiến có hai khả năng: hoặc là hòa bình được duy trì, hiệp định được thực hiện từng bước, phong trào cách mạng miền nam có điều kiện tiếp tục phát triển; hoặc là chiến tranh sẽ vẫn tiếp diễn. Ta ra sức tranh thủ khả năng thứ nhất, đồng thời ra sức chuẩn bị sẵn sàng đối phó khả năng thứ hai.

Tháng 7-1973,  Ban Chấp hành Trung ương Ðảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 21 và ra Nghị quyết Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới. Hội nghị phân tích thắng lợi to lớn của ta sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; chỉ ra một số nhược điểm, khuyết điểm của ta từ sau Hiệp định Paris. Hội nghị khẳng định: "Con đường cách mạng của miền nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, chỉ đạo linh hoạt, đưa cách mạng miền nam tiến lên."

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới là phải: "Tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết toàn dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân... đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi tới xóa bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xóa bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc, dân chủ thực sự, thực hiện hòa hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà."

Hội nghị chỉ rõ phương châm tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, căn cứ tình hình cụ thể của từng thời kỳ, từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh; giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt, làm tan rã và suy yếu từng mảng lớn lực lượng quân sự, chính trị của địch, tạo ra những chuyển biến to lớn về so sánh lực lượng, về cục diện chiến trường có lợi cho ta...

Trước tình hình mới, nhiệm vụ của miền bắc là phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có, ra sức đẩy mạnh chi viện miền nam, khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân, làm cho miền bắc xã hội chủ nghĩa luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc...

Trung ương còn xác định: Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải nắm vững lực lượng vũ trang; phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm các vùng giải phóng hoặc bình định vùng đồng bằng, vùng giáp ranh; trong đó, phải thực hiện được yêu cầu giành dân và giành quyền làm chủ nhằm giành lấy thế mạnh để thắng địch; phải đẩy mạnh công tác binh vận, đẩy mạnh mũi tiến công thành thị, ra sức củng cố vùng giải phóng, tăng cường công tác mặt trận, đẩy mạnh công tác ngoại giao, tăng cường công tác Ðảng...

Tháng 3-1974, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 21 về mặt quân sự, Hội nghị Quân ủy Trung ương đã đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt phương châm và phương thức đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược.

Tinh thần của Nghị quyết 21 Ban Chấp hành Trung ương cùng Nghị quyết của Quân ủy Trung ương đã góp phần quyết định nhanh chóng việc xoay chuyển tình thế ở miền nam, làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường miền nam có lợi cho ta; được các cấp ủy đảng, lãnh đạo các chiến trường, các mặt trận, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, chính quyền và nhân dân quán triệt tổ chức thực hiện. Quân và dân ta trên chiến trường miền nam quyết tâm chủ động thực hiện tiến công và phản công bẻ gãy, đánh bại các cuộc hành quân, càn quét, lấn chiếm của quân ngụy, từng bước giành lại nhiều vùng đã bị lấn chiếm, giữ vững thế trận, củng cố lực lượng, mở rộng vùng giải phóng. Ðến giữa năm 1974, trên toàn miền nam, ta đã xóa được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp với 11 vạn dân. Ngược lại, quân đội Sài Gòn phải lui từng bước về giữ các đô thị, các vùng giao thông huyết mạch và địa bàn có ý nghĩa chiến lược trọng yếu.

Trong khi đó, với sự chi viện mạnh mẽ, liên tục từ hậu phương miền bắc, lực lượng vũ trang ta trên chiến trường nhanh chóng phát triển, áp đảo quân địch. Trên miền bắc, các quân đoàn, binh đoàn chủ lực lần lượt ra đời. Ở miền nam, lực lượng vũ trang ta mở cuộc tiến công và giành thắng lợi quyết định như trận chi khu quận lỵ Thượng Ðức [tháng 8-1974], chiến dịch Ðường 14 - Phước Long, chiến dịch Tây Nguyên... Tuyến vận tải chiến lược 559 tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, áp sát các chiến trường Tây Nguyên, Ðông Nam Bộ. Trên cơ sở Nghị quyết 21 Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo, lãnh đạo từng bước hoàn thiện kế hoạch giải phóng miền nam, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...

NGUYỄN VĂN QUYỀN
[Viện Lịch sử quân sự Việt Nam]

Video liên quan

Chủ Đề