Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
phong cách nghệ thuật. Trong sáng tác của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến
và Tú Xương chúng ta bắt gặp rất nhiều những từ ngữ ở làng quê, thô sơ, mộc
mạc, song nó lại tạo nên chất thơ rất riêng khi tìm hiểu, nghiên cứu chúng ta
thấy có những từ nếu đứng riêng thì thộng tục [đứa, cái, nó, cả] nhưng khi
nằm trong cấu trúc câu thơ thì nó lại rất thơ. Đó là vì các nhà thơ đã biết đưa
vào đúng lúc, đúng chỗ làm cho người đọc cảm thấy cái dân dã, đời thường và
gần gũi tự nhiên. Chúng tôi thống kê được 558 phiếu [chiếm 47,4%], trong đó
Hồ Xuân Hương 170 phiếu [chiếm 14,44%], Nguyễn Khuyến 186 phiếu
[chiếm 15,8%], Tú Xương là người sử dụng vốn từ khẩu ngữ nhiều nhất với
202 phiếu [chiếm 17,6%] và có thể chia thành các tiểu loại như sau:
* Sử dụng từ chỉ loại, đại từ [cái, đứa, nó]
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
[Khóc ông phủ Vĩnh Tường Hồ Xuân Hương]
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
[Cái kiếp tu hành Hồ Xuân Hương]
Trong thơ Hồ Xuân Hương, từ cái xuất hiện rất nhiều lần và được
Xuân Hương sử dụng rất linh hoạt làm nổi bật chất dân dã đời thường.
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì từ cái là danh từ được
dùng với nhiều chức năng, nhiều ý nghĩa khác nhau. Để hiểu rõ hơn, ta phân
tích hai ví dụ trên.
Ở ví dụ đầu từ cái được dùng để chỉ cá thể sự vật, sự việc với ý nghĩa
rất khái quát. Từ cái như là lời than có phần chân thành tha thiết của Xuân
Hương với ông Phủ thương yêu. Qua đó thấy được sự phẫn xót cái phận bạc
bẽo của Xuân Hương. Còn ở ví dụ sau, từ cái được dùng với lối nói ngược
22
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
đá đeo nhằm làm nổi bật thái độ mỉa mai, châm biếm của Xuân Hương với
sự nhạt nhẽo, nhố nhăng của cái kiếp tu hành.
Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe,
Lặng đi kẻo động khách làng quê.
Nước non có tớ càng vui vẻ,
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê?
[Về hay ở Nguyễn Khuyến]
Người bảo ông điên, ông chẳng điên
Ông thương ông tiếc hóa ông phiền
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ
Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền.
[Thói đời Tú Xương]
Cũng theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê thì đứa là để chỉ từng
cá nhân, người còn trẻ, thuộc hàng dưới, còn từ tớ dùng để tự xưng một
cách thân mật giữa bạn bè thường còn ít tuổi, và thằng là từ chỉ từng cá
nhân người đàn ông con trai thuộc hàng dưới hoặc ngang hàng với ý thân mật
hoặc không tôn trọng.
Nếu ở ví dụ sau tác giả sử dụng từ đứa và thằng để chỉ những kẻ
ham tiền với sắc thái không thân thiện, khẩu ngữ, suồng sã thì ở ví dụ trước từ
tớ lại được Nguyễn Khuyến sử dụng thể hiện sự thân mật, gắn bó. Đó là bài
thơ ông làm khi cáo quan về ở ẩn, khi dần nhận rõ chân tướng thật sự của chế
độ xã hội Nho tàn nửa thực dân nửa phong kiến. Nhưng buổi đầu còn một
chút do dự về quyết định này nên ông vẫn rất lạc quan, vui vẻ khi khẳng định
bản thân mình. Với ý nghĩa đó từ tớ đã góp phần thể hiện niềm lạc quan yêu
đời, giản dị của Nguyễn Khuyến với chính bản thân mình.
* Sử dụng từ khẩu ngữ có sắc thái hồn nhiên thông tục
23
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Ở đây, việc sử dụng lớp từ khẩu ngữ có sắc thái hồn nhiên thông tục có
thể được hiểu đơn giản là những từ ngữ được dùng trong lời nói miệng thoải
mái, thậm chí thô lỗ, tục tằn. Khi đi vào văn chương những từ thông tục có
thể được dùng trong ngôn từ nghệ thuật làm phương tiện tu từ tạo nên đặc
trưng lời nói nhân vật. Đọc các bài thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương ta thấy lớp từ khẩu ngữ có sắc thái hồn nhiên
thông tục được các tác giả sử dụng thường xuyên, dày đặc nhưng có chọn lọc,
phù hợp với từng đối tượng cụ thể, gắn với những ngữ cảnh nhất định. Lớp từ
khẩu ngữ đã thực sự tạo được những liên tưởng bất ngờ, những hàm nghĩa
tinh tế, sinh động, có tác dụng trong việc làm cho đối tượng, sự việc được
miêu tả thực hơn, tạo nên những nhận thức mới. Mỗi người đọc, dù khác nhau
về tuổi tác, trình độ nhưng khi đọc các bài thơ Nôm Đường luật của ba tác giả
Trung đại đều có cảm giác như đang nghe tiếng nói của lòng mình, như đang
tiếp xúc với những lời nói quen thuộc hàng ngày, tự nhiên, sinh động. Đó là
những từ ngữ dùng để xưng hô thằng, con, mụ, thằng cu, anh cu,những lời
thông tục, tiếng chửi như: già tom, phường lòi tói, thây cha, chém cha,hay
các đại từ nhân xưng: ông, mình tôi, ta, tớ, tao, nó, mày,từ để hỏi, từ cảm
thán: nhé, nhỉ, thì thôi, thế thôi.. đã được sử dụng một cách bỗ bã, suồng sã
nhưng gần gũi thân mật.
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được tổng số 358 phiếu chiếm
[30,41%] trong đó Hồ Xuân Hương là người sử dụng nhiều nhất lớp từ khẩu
ngữ có sắc thái hồn nhiên thông tục vào trong thơ Nôm Đường luật. Lã Nhâm
Thìn trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, 1988 khẳng định:
Ngôn ngữ đời sống dưới tay bà chúa thơ Nôm biến hóa khôn lường. Bà đúng
là nghệ sĩ ngôn từ, biểu diễn từ ngữ trên những dòng thơ như nghệ sĩ xiếc trên
dây. Thành công này của bà đã được Nguyễn Khuyến và Tú Xương sau này
kế thừa và phát triển.
24
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Trước hết, với Hồ Xuân Hương - ngôn ngữ trong thơ bà là ngôn ngữ
thông tục nhất mà đắt nhất, hay nhất.
Thân này đâu đã chịu già tom.
[Tự tình I]
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
[Mắng học trò dốt II]
Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom.
[Hỏi trăng]
Các từ khẩu ngữ đi vào trong thơ Hồ Xuân Hương rất tự nhiên, mang
bản lĩnh nghệ thuật độc đáo, phi thường. Những danh từ, tính từ trong thơ Hồ
Xuân Hương sẽ không có gì đặc biệt là ngôn ngữ đời sống nếu thiếu những từ
làm định ngữ, làm bổ ngữ - những từ này mới thực sự mang chất liệu đời sống
hàng ngày được đưa vào sáng tác văn học.
Bà chúa thơ Nôm cũng rất giỏi sử dụng các đại từ nhân xưng, các từ để
hỏi, các từ cảm thán, các từ nhé, nhỉ, thì thôi, thế thôi
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn đó hang hùm chớ mó tay
[Trách Chiêu Hổ - 1]
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
[Lấy chông chung]
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
[Khóc Tổng Cóc]
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được
[Quan thị]
25
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Những từ như: chị, nhỉ, thôi đành, thế thôi, thì thôi, thuộc phong cách
khẩu ngữ, nhưng khi vào thơ Hồ Xuân Hương đã trở thành phong cách Hồ
Xuân Hương: vừa giản dị, mộc mạc, gần gũi vừa mang đậm chất thơ. Những
từ đó chủ yếu mang chức năng khắc họa tâm trạng trữ tình, bày tỏ tâm sự, thái
độ của Xuân Hương trước sự vật, khiến cho thơ Xuân Hương dễ đi vào lòng
người.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
[Tự tình I Hồ Xuân Hương]
Theo Từ điển tiếng Việt, từ mặc và thây đều được hiểu chung là
Để cho tùy ý và tự chịu trách nhiệm lấy, coi như không biết gì, không can
thiệp gì đến.
Trong ví dụ trên, từ mặc và thây cho ta thấy thái độ mặc kệ, buông
xuôi của Xuân Hương và làm nổi bật tâm trạng buồn chán, ngao ngán của bà
trước duyên phận hẩm hiu. Từ mặc và thây còn góp phần thể hiện thái độ,
những suy tư thầm kín mà giản dị của người phụ nữ, đưa Xuân Hương gần
gũi hơn với cuộc sống đời thường.
Tiếp nối những thành công của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và
Tú Xương đã mạnh tay hơn trong xu hướng sử dụng ngôn ngữ đời sống vào
phong cách trào phúng [14].
Trong thơ Tú Xương, các lớp từ khẩu ngữ liên kết với nhau bởi chức
năng trào phúng.
Ông trông lên bảng thấy tên ông
Ông tớp rượu vào ông nói ngông
Ăn yến xem ra có thịt công
Cụ Sứ có cô con gái đẹp
26
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Lăm le xui bố cưới làm chồng
[Nói ngông]
Bởi mục đích của bài thơ là nói ngông cho hả cái tài khác đời mà vẫn
bị lép vế, nên tự xưng phải là ông, rượu phải tớp chứ không thể hớp
một cách tao nhã. Hai từ xem ra rất khẩu ngữ trong câu thơ Ăn yến xem ra
có thịt công cốt là để nói một cách chậm rãi sự sang trọng, còn sự lên mặt
với đời được thể hiện bằng cách nói thật dân dã: Lăm le xui bố cưới làm
chồng.
Khẩu ngữ đi vào thơ Tú Xương nhiều khi rất ngang ngược, coi
thường luật công thức nhưng lại tuân theo luật tự nhiên của cảm xúc, tâm
trạng. Ông Tú dùng từ thì rất ngang để tỏ thái độ với bọn tham độc, dai
như đỉa đói:
Hễ cắn ai thì sét mới tha
[Ông cử Ba]
Trong thơ Nôm có lẽ không ai dùng tiếng chửi nhiều như Tú Xương.
Ông Tú là người chửi có tài, thậm chí có biệt tài sử dụng tiếng chửi để viết
nên thơ.
Khi thì chửi mát:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
[Thương vợ]
Cha kiếp sinh ra phận má hồng
[Lấy lẽ]
Khi thì chửi thề:
Cha thằng nào có tiếc không cho
[Thề với người ăn xin]
Lúc như chửi giễu:
27
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Từ rày thây mẹ quan viên hội
[Giễu ông đội Chấn]
Nhờ ngôn ngữ đời sống, nhờ khẩu ngữ Tú Xương mới nói được hết cái
bực, cái uất, cái đau thầm kín trong lòng mình. Những câu thơ được viết ra
như những lời tâm sự suồng sã nhưng chân thành của ông với đời.
Trời dậy thì bay chết bỏ đời
[Hót của trời]
Tế đổi làm cao mà chó thế
Kiện trông ra Tiệp hỡi trời ôi
[Hỏng thi]
Trâu bò buộc cẳng trông buồn nhỉ
Tôm tép văng mình đã sướng chưa.
[Lụt Bính Ngọ]
Người đọc có cảm giác khẩu ngữ đi vào thơ Tũ Xương thật tự nhiên và
dễ dàng như không có một trở lực nào. Buột miệng là thành thơ:
Thi thế mà cũng thi
Ới khỉ ơi là khỉ
[Than sự thi]
Hầu hết các bài thơ của Tú Xương đều mang đậm ngôn ngữ đời sống
với những từ khẩu ngữ dân dã quen thuộc với đời thường. Trong bài Thói
đời Tú Xương viết:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
[Thói đời Tú Xương]
28
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, phen là Từ dùng để chỉ lần
xảy ra sự việc [thường là quan trọng, đáng chú ý]. Từ phen trong bài Thói
đời được Tú Xương dùng kết hợp với từ ông quyết góp phần tạo ra sự gần
gũi, đùa vui hóm hỉnh nhưng cũng mang ý tứ mỉa mai: trước thực trạng nước
mất nhà tan, tác giả vạch trần những tâm lý giả dối, sáo rỗng của con người
trong ngày tết. Từ phen này tưởng như thông tục, dân dã nhưng lại hàm
chứa ý nghĩa châm biếm sâu sắc của nhà thơ.
Trong thơ Nguyễn Khuyến, ngôn ngữ đời sống cũng mang phong cách
trào phúng là chủ yếu nhưng nhiều khi còn mang phong cách trữ tình. Do vậy,
các lớp từ vựng khẩu ngữ phong phú, đa dạng hơn. Phong phú, đa dạng ở các
đại từ nhân xưng: ông, mình, tôi, ta, tớ, tao, nó, mày
Ông nghĩ mình ông ngẫm cũng hay
[Tự thuật]
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
[Tự trào]
Ấy năm sinh bác cũng sinh tôi
[Mừng anh vợ]
Nhắn bảo trần gian cho nó biết
[Trời nói]
Các trợ từ cũng thật phong phú: ừ, nhỉ, mà, ư, thôi a, thế a, đó a, cũng
làĐặc biệt trợ từ nhỉ được dùng rất đa dạng. Khi mang sắc thái trữ tình
như lời tự nhủ, tự ngẫm:
Ông trời có lẽ cho ta nhỉ
[Về nghỉ nhà]
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
[Tự trào]
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ
29
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
[Lên lão]
Nguyễn Khuyến có những bài thơ hầu như dùng hoàn toàn cách nói
khẩu ngữ, ví dụ bài Lên lão:
Ông chẳng hay ông tuổi đã già
Năm lăm ông cũng lão đây mà
Anh em làng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là
Chú Đáo bên làng lên với tớ
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ
Có rượu thời ông chống gậy ra
Lên lão là việc hệ trọng của đời người nhưng Nguyễn Khuyến lại dùng
phong cách khẩu ngữ để nói với giọng hóm hỉnh, đùa vui, bởi cụ Tam
Nguyên đã là cụ Thượng chân quê, dân dã và còn bởi những người đến mừng
ngày lên lão là Anh em làng xóm cũng rất mực dân dã, chân quê. Chỉ với
phong cách khẩu ngữ, Nguyễn Khuyến mới nói được tất cả nỗi lòng một cách
chân tình để đáp lại những tấm thịnh tình.
Trong bài Thu điếu Nguyễn Khuyến đã rất thành công khi sử dụng từ
vèo để tạo nên tính biểu cảm cũng như tính chất dân dã cho câu thơ.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, thì từ vèo có nghĩa là Lướt
qua rất nhanh rồi biến mất không kịp nhìn thấy. Từ vèo được đặt ở cuối
câu thơ nhằm làm nổi bật tốc độ bay của lá vàng là rất nhẹ kết hợp với nghệ
thuật đối rất điêu luyện: lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay
tương ứng với mức độ tí của gợn song. Tất cả đã góp phần vẽ nên một bức
tranh thu đơn sơ mà lộng lẫy của quê hương làng cảnh Việt Nam.
30
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy được nghệ thuật sử dụng từ nhuần
nhuyễn linh hoạt của 3 nhà thơ Trung đại. Cũng giống trường hợp Hồ Xuân
Hương, ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ giao tiếp của toàn dân khi đi vào thơ
Nôm Đường luật đã từ phong cách khẩu ngữ trở thành phong cách Tú Xương,
phong cách Nguyễn Khuyến. Thật khó có thể chỉ ra cái gì đã làm nên điều kì
diệu này. Phải chăng đó là sự cộng hưởng của ba yếu tố: tính tự nhiên của lời
nói, cái thực của tâm trạng, bản tính khôi hài của các tác giả. Từ đây, ta có thể
khẳng định rằng: ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ của đời thường, của cuộc
sống.
c. Sử dụng từ ghép sắc thái hóa
Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, tác giả Lã Nhâm Thìn nhận xét Ưa
dùng những từ ngữ giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm là một qui luật trong
phong cách khẩu ngữ tự nhiên của tiếng Việt [1, 110].
Từ ghép sắc thái hóa là từ ghép mang lại hiệu quả nghệ thuật cao được
các tác giả: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương khai thác triệt để
tạo ra màu sắc tự nhiên trong thơ. Chúng tôi thống kê được Hồ Xuân Hương
17 phiếu [chiếm1,44], Nguyễn Khuyến 14 phiếu [chiếm 1,18%], Tú Xương
13 phiếu [chiếm 1,17%].
Trong thơ Hồ Xuân Hương, các từ ghép sắc thái hóa được bà sử dụng
rất khéo léo, linh hoạt qua các bài thơ:
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
[Đèo ba dội Hồ Xuân Hương]
Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy vừng nguyệt quế đỏ đỏ lòm lom.
[Trăng thu Hồ Xuân Hương]
31
Khóa luận tốt nghiệp
Hà Thị Kim Thoa K35B - SP Ngữ Văn
Ở hai ví dụ trên chúng ta thấy tác giả đã sử dụng rất khéo các từ ghép
sắc thái hóa có khả năng gợi hình biểu cảm cao. Đỏ loét khác với đỏ ửng
hay đỏ hoe. Đỏ loét và đỏ lòm lom đều có điểm tương đồng đều là màu
đỏ rực đến mức lòe loẹt. Xanh rì chứ không phải xanh xanh. Từ xanh rì
gợi cho chúng ta hình ảnh những hòn đá phủ đầy rêu xanh, nó đã trải qua
nhiều mưa gió cùng với dòng chảy của thời gian. Chín mõm mòm khác với
chín ốm hay chín vàng. Đó là trạng thái đã chín kĩ quá rồi. Nó đáng lí
phải rụng nhưng nó vẫn tồn tại. Những từ ngữ chỉ màu sắc trạng thái của sự
vật trên cho chúng ta thấy rất rõ tính cách của Hồ Xuân Hương: một tính cách
mạnh mẽ, rất Xuân Hương.
Với Nguyễn Khuyến, các từ ghép sắc thái hóa đi vào trong thơ ông rất
tự nhiên, gần gũi.
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
[Thu vịnh Nguyễn Khuyến]
Con gái nhà ai dáng thị thành
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh.
[Thiếu nữ đi tu Tú Xương]
Ở hai ví dụ trên ta thấy Nguyễn Khuyến và Tú Xương cũng sử dụng rất
khéo léo các từ ghép sắc thái hóa. Xanh ngắt khác với xanh xao hay
xanh rì. Từ xanh ngắt là xanh thuần một màu trên diện rộng. Từ xanh
ngắt gợi cho chúng ta một màu xanh mênh mông, vô tận và sâu thẳm mấy
tầng cao. Ở đó vừa có chiều sâu của thời gian, vừa có chiều rộng của không
gian. Khác với từ xanh ngắt hay xanh xao, từ xuân xanh là từ chỉ tuổi
trẻ ví như mùa xuân tươi đẹp. Ngoài những ý nghĩa gốc, các từ ghép sắc thái
hóa này đã góp phần làm tăng thêm tính gợi hình và biểu cảm cho câu thơ.
d. Sử dụng lớp từ láy mang màu sắc khẩu ngữ
32