Nguyên tắc mô phạm trong giao tiếp sư phạm là gì

1. Khái niệm về giáo tiếp sư phạm:
* Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính chất nghề nghiệp giữa giáo viên với họcsinh trong quá tŕnh giảng dạy và giáo dục, có chức năng sư phạm nhất định, tạora các tiếp xúc tâm lý, xây dựng không khí tâm lý thuận lợi, cùng các quá trìnhtâm lý khác [chú ý, tư duy . . .] có thể tạo ra kết quả tối ưu của quan hệ thầytrọ̀, trong nội bộ tập thể học sinh và trong hoạt động dạy cũng như hoạt độnghọc. Giao tiếp sư phạm là một thành phần cơ bản của hoạt động sư phạm vì nhữnghình thức cơ bản của dạy học và giáo dục như giảng bài trên lớp, phụ đạo, thi cử, . .đều diễn ra trong điều kiện giao tiếp. Nếu không có giao tiếp thì mối quan hệ thầy trọ̀ sẽ xa cách, rời rạc, khó đạt được mục đích giáo dục.

* Giao tiếp sư phạm có các đặc trưng cơ bản:


- Giao tiếp sư phạm mang tính chuẩn mực [ mẫu mực] : Tính chuẩn mực là mộttất yếu trong giao tiếp sư phạm. Khi giảng bài, khi đánh giá học sinh và khi gặpgỡ trọ̀ chuyện với học sinh, thầy luôn phải có sự mẫu mực, thống nhất giữa lờinói và việc làm…phải là tấm gương sáng về nhân cách cho học sinh noi theo.  - Giao tiếp sư phạm dựa trên nền tảng tình cảm, thuyết phục, cảm hóa, vậnđộng …chứ không dùng biện pháp ngăn cấm, trừng phạt, đánh đập, hành hạ, trù dập học sinh. - Giao tiếp sư phạm được xă hội tôn vinh, bảo đảm trong môi trường an toàn, lành mạnh. Học sinh phải có thái độ tôn kính người thầy giáo. Nhà nước và xăhội đều tôn trọng người thầy giáo [được thể hiện trong luật giáo dục].

- Giao tiếp sư phạm diễn ra trong môi trường học đường.

             * Mục đích của giao tiếp sư phạm là:

- Truyền đạt tri thức, kỹ năng kỹ xảo, hành vi xă hội cho học sinh. - Giáo dục, xây dựng nhân cách học sinh phù hợp với đ̣i hỏi của xă hội. - Tạo khả năng thích ứng với xă hội cho học sinh.


* Đối tượng của giao tiếp sư phạm:

Trong dạy học và giáo dục, diễn ra các loại giao tiếp sau: - Giao tiếp giữa cá nhân giáo viên và cá nhân học sinh. - Giao tiếp giữa cá nhân giáo viên với nhóm hay tập thể học sinh.

- Giao tiếp giữa học sinh với nhóm. Khi thầy giáo giao tiếp với học sinh để thôngbáo hay tổ chức hoạt động của học sinh th́ giao tiếp mang tính chất chế định, c̣òn trong giờ nghỉ, ngoài giờ học thì đó là giao tiếp tự do.

Quá trình giao tiếp giữa giáo viên và học sinh có thể khái quát như sau:

Chủ thể giao tiếp  và đối tượng giao tiếp có tác động qua lại với nhau

- Khi giáo viên lên lớp giảng bài thì quan hệ giao tiếp giữa giáo viên và học sinh theo sơ đồ sau:

 Chủ thể giao tiếp và chủ thể tiếp nhận có tác động qua lại

-   Khi học sinh trao đổi ý kiến với giáo viên; khi học sinh có thắc mắc, hỏi giáo viênthì giữa giáo viên và học sinh có mối quan hệ theo sơ đồ sau:

 Sự tác động giữa chủ thể với chủ thể

2. Phương tiện giao tiếp sư phạm:
2.1. Ngôn ngữ:

Trong giao tiếp, ngôn ngữ là phương tiện cơ bản. Trong các loại ngôn ngữ đượcsử dụng để giáo tiếp sư phạm thì ngôn ngữ nói giữ một vị trí hàng đầu.
* Có 2 cách sử dụng ngôn ngữ nói trong quá trình giao tiếp sư phạm:

  •

Ngôn ngữ đối thọai. Sử dụng khi giáo viên đàm thọai với học sinh.

  •

Ngôn ngữ độc thọai: Sử dụng khi giáo viên giảng bài cho học sinh nghe.

* Ngôn ngữ nói của giáo viên khi giao tiếp phải đảm bảo các yêu cầu sau:  - Ngôn ngữ phải dễ hiểu, mạch lạc, rơ ràng và đạt chuẩn tiếng Việt. - Ngôn ngữ phải dễ nhớ, dễ gây ấn tượng với học sinh  - Ngôn ngữ phải bảo đảm tính thuyết phục bằng cách nói, cách đặt vấn đề . . .  - Thầy giáo phải biến đổi ngôn ngữ viết trong sách, trong tài liệu thành ngôn ngữcủa chính mình.[ Không cầm sách khi nói và nhìn sách đọc giảng ] - Thầy giáo phải làm chủ ngôn ngữ của mình về : Cách diễn đạt lời nói, ngữđiệu, giọng điệu, âm lượng …Muốn làm chủ lời nói như vậy, giáo viên cần nắmvững nội dung bài giảng

-   Biết kết hợp lời nói với điệu bộ, cử chỉ, tư thế… nhằm nhấn mạnh, khơi sâu.

Khi sử dụng ngôn ngữ viết, giáo viên phải viết rõ ràng, đủ nét, rõ chữ khi viết tên chương, đề mục, tiêu đề, tên nước ngoài. Khi viết vào vỡ của học sinh [hoặc bài làm] phải viết rõ, dễ đọc, dễ hiểu, đúng ngữ pháp, rõ ý và nghĩa.


2.2. Hành vi, cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp sư phạm gọi chung là phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Trong loại phương tiện giao tiếp này có:
* Nét mặt do sự vận động của mắt, mũi, miệng.và các bộ phận trên mặt tạo ra.Nó là sự biểu lộ một số trạng thái tâm lý trên nét mặt, đặc biệt là ánh mắt thực hiện các chức năng giao tiếp sau:

+ Tín hiệu về sự đồng ý hay không đồng ý. + Tín hiệu về tình cảm, về nhu cầu, trạng thái vui vẻ hay buồn chán...

+ Tín hiệu về mức độ nhận thức: Hiểu bài hay không hiểu bài.

+ Chú ý hay không chú ý..nhiệt tình hay thờ ơ...tự tin hay mất bình tĩnh....

Nét mặt và ánh mắt của người thầy giáo rất quan trọng: nó có thể tạo ra cảm giác an toàn ở học sinh, tạo ra không khí tâm lý tốt đẹp trong quá trình dạy học và giáo dục.. . Sự biểu lộ các trạng thái tâm lý trên nét mặt con người, rất phong phú, phức tạp, và phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp và cá tính của mỗi người.
* Điệu bộ, cử chỉ, tư thế, dáng đứng, đi.
+ Điệu bộ, Là cử động của tay, chân, cơ thể …để diễn đạt một điều gì đó hay phụ họa thêm cho lời nói. Ví dụ vừa nói chuyện vừa hoa chân, múa tay. Vừa giảng bài, vừa đưa tay làm điệu bộ.... tuy nhiên có trường hợp điệu bộ chỉ làthói quen. Như vậy, điệu bộ có thể góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động.   Đối với giáo viên, điệu bộ phải do sự rèn luyện theo yêu cầu sư phạm, cácđiệu bộ cần mang ý nghĩa giáo dục, không nên quá cuồng nhiệt, tùy tiện.
+ Cử chỉ: Là cử động hay một việc làm của cá nhân biểu lộ một thái độ hay một trạng thái tinh thần nào đó. Cử chỉ có khi giống như một điệu bộ là có ý phụ họa cho ngôn ngữ nói, nhưng phần lớn các cử chỉ có ý biểu đạt một thái độhay một trạng thái độc lập chứ không phụ họa cho lời giảng , ví dụ như vẫy tay cho học sinh ngồi xuống, đưa mắt có ý nhắc học sinh trật tự…

Như vậy cử chỉ là một phương tiện giao tiếp, nó có thể hỗ trợ cho các phương tiện giao tiếp khác làm cho quá trình giao tiếp thêm sinh động, nó cũng có thể dùng độc lập khi phương tiện giao tiếp khác đang bận.

+ Tư thế: là cách đặt toàn thân thể và các bộ phận của thân thể ở một vị trí nhấtđịnh trong thời điểm nhất định, Ví dụ tư thế đứng nghiêm khi chào cờ, tư thếngồi ngay ngắn và nghiêm túc trong giờ học… Tư thế c̣òn được hiểu là tổng thểcách ăn mặc, nói năng đi, đứng, ngồi… của cá nhân trong một cương vị nhấtđịnh, hoặc trong một ḥoàn cảnh nhất định. Tư thế có đặc điểm là: 

  •

Một bộ phận quan trọng của các nghi thức trong giao tiếp.

  •

Tư thế phải phù hợp với hoàn cảnh và công việc.

  •

Tư thế thể hiện nội dung tâm lý của chủ thể.

  •

Một cá nhân có thể có nhiều tư thế khác nhau.

  •

Tư thế dễ thay đổi, từ tư thế này có thể nhanh chóng chuyển sang tư thếkhác.

Trong giao tiếp sư phạm thường có hai tư thế hoặc là đứng, hoặc là ngồi. Nhìnchung tư thế của giáo viên cần phải đĩnh đạc, đàng hoàng, ung dung, khoan thai. Cụ thể là:

-   Khi giảng bài mới, giáo viên nên ở tư thế đứng, mắt hướng về phía học sinh.  -   Khi viết bảng, giáo viên nên nghiêng người về phía bên phải.

- Khi kiểm tra, giáo viên có thể ngồi ghế hoặc di chuyển nhẹ nhàng để quan sát học sinh.

+ Hành vi: Hành vi là toàn bộ cách phản ứng, cư xử biểu hiện ra bên ng̣oài trong một ḥan cảnh cụ thể . Hành ví là tổng hợp lời nói, cử chỉ, điệu bộ để tỏthái độ phản ứng với một ḥoàn cảnh cụ thể nào đó.

Trong giao tiếp sư phạm, hành vi giao tiếp của giáo viên có đặc điểm là:

- Được hình thành từ các nguồn gốc khác nhau : Thói quen hành vi giao tiếp.

  Do học tập, rèn luyện trong trường sư phạm theo các chuẩn mực hành vi của giáoviên, có khi do cá nhân học hỏi từ kinh nghiệm của đồng nghiệp.

- Hành vi giao tiếp sư phạm phải khoan dung, nhân hậu, thương mến học sinh. C̣òn học sinh thì phải lễ phép, cung kính , tôn sư, trọng đạo.  - Hành vi giao tiếp sư phạm mang tính linh hoạt, giáo viên phải tinh tế khéo léo, có nghệ thuật ứng sử sư phạm.


2.3. Trang phục trong giao tiếp sư phạm:

Trang phục của cá nhân là cách ăn mặc, trang điểm, phù hiệu …trang phục cóthể do quy định, cũng có thể do tư chọn. Trang phục thường là cơ sở để đốitượng giao tiếp đánh giá chủ thể giao tiếp về: tuổi tác, nghề nghiệp, tầng lớp xăhội, tính cách, đạo đức, trình độ thẩm mỹ…hay hoàn cảnh của đối tượng giao tiếp. Trong lần giao tiếp đầu tiên, trang phục quyết định ấn tượng ban đầu vàc̣òn ảnh hưởng nhiều cho mối quan hệ tiếp theo. Trang phục của giáo viên trong giờ lên lớp có ý nghĩa rất quan trọng, nó thểhiện tính nghiêm túc, tính tổ chức, kỷ luật, và thái độ tôn trọng nhân cách họcsinh. Vì vậy cho nên trang phục của giáo viên phải bảo đảm tính lịch sự, bảođảm sự hài ḥòa, cân xứng với vóc dáng. Cần tránh 2 xu hướng:

+ Quá cầu kỳ, 

            + Quá đơn giản đến mức lượm thượm.

Chương VII: GIAO TIẾP SƯ PHẠM

3. Các kỹ năng giao tiếp sư phạm 

            * Kỹ năng giao tiếp sư phạm: Là hệ thống những thao tác, cử chỉ, điệu bộ, hành vi [kể cả hành vi ngôn ngữ] phối hợp hài ḥòa, hợp lý của giáo viên nhằm bảođảm cho sự giao tiếp với học sinh trong hoạt động dạy học và giáo dục đạt hiệu quảcao. Diễn biến của quá trình giao tiếp gồm nhiều giai đọan khác nhau,  trong nhữngđiều kiện thay đổi, do đó kỹ năng giao tiếp là một tổ hợp nhiều kỹ năng..
            * Kỹ năng giao tiếp sư phạm thể hiện ở các khả năng:

+ Nhận thức nhanh chóng những biểu hiện của học sinh và bản thân. + Sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.

+ Điều khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt  mục đích giáo dục.

            * Kỹ năng giao tiếp sư phạm được hình thành từ các con đường:

+ Từ những thói quen ứng xử được xây dựng từ gia đình, quan hệ xă hội. + Do vốn sống, kinh nghiệm của cá nhân qua tiếp xúc với mọi người.

+ Do rèn luyện rong môi trường sư phạm.

            *Các kỹ năng giao tiếp sư phạm bao gồm:


3.1. Các kỹ năng định hướng giao tiếp: Biểu hiện ở khả năng dựa vào biểu lộbên ngoài của học sinh mà phán đoán được một cách chính xác những trạngthái tâm lý bên trong của học sinh, phán đoán được mối quan hệ giữa học sinh với nhà giáo . . Kỹ năng định hướng giao tiếp thể hiện trong suốt quá trình giao tiếp, vì vậy, giáo viên cần + Định hướng trước khi giao tiếp: Đó là sự thu thập thông tin về đối tượng từtrước khi gặp gỡ để xây dựng, phác thảo chân dung tâm lý của đối tượng, nhờđó giáo viên dự đoán trước những phản ứng có thể có của học sinh và chủ độngcác phương án ứng xử… + Định hướng trong quá trình giao tiếp: Thực chất là huy động vốn kinh nghiệm, quan sát, tư duy… để nhận thức, điều chỉnh, khẳng định thái độ cho phù hợp với nội dung, diễn biến của quá trình giao tiếp. Kỹ năng định hướnggiao tiếp quyết định thái độ và hành vi của giáo viên khi tiếp xúc với học sinh.

3.2. Các kỹ năng nhận biết những dấu hiệu bề ngoài của học sinh

Giúp giáo viên xây dựng “mô hình nhân cách học sinh” một cách đúng đắn, chính xác. Các dấu hiệu bên ngoài có thể được khái quát thành 2 nhóm dấu hiệu : + Nhóm dấu hiệu bên ngoài nhận biết bằng nhận thức cảm tính: chiều cao, dáng vẻ

+ Nhóm dấu hiệu bên trong mang tính chất tổng quát: tính cách, tình cảm, đạo đức... Sự nhận biết các dấu hiệu bên ngoài mang tính chất tổng quát, ít nhiều có sự tham gia của tư duy, các nhà tâm lý học gọi chung là lý trí – trực giác. Bản chất của nó là : sau khi phối hợp giác quan tham gia nhận thức điều gì… thì người ta sẽ biết ngay là nên xửsự như thế nào?


3.3. Kỹ năng định vị: thể hiện ở các khả năng:

+ Biết xác định vị trí trong giao tiếp. + Biết đặt ḿnh vào vị trí của đối tượng , đồng cảm với đối tượng giao tiếp. + Biết tạo ra điều kiện để đối tượng chủ động giao tiếp với mình.

+ Biết xác định đúng thời gian và không gian giao tiếp.

      + Biết chọn thời điểm mở đầu, ngừng, tiếp tục và kết thúc giao tiếp. 3.4 Kỹ năng điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp sư phạm: 

  giáo viên cần phải:

+ Có khả năng làm chủ nhận thức, thái độ và hành vi, phản ứng của mình. + Đọc được những vận động trên nét mặt, cử chỉ, điệu bộ...của đối tượng. Nói cách khác, giáo viên phải có kỹ năng quan sát bằng mắt. + Biết nghe và lắng nghe. + Biết xử lý thông tin.

+ Biết điều chỉnh, điều khiển, có nghĩa là: có hành vi ứng xử phù hợp; linh hoạt, với đối tượng ở các hoàn cảnh và nội dung giao tiếp khác nhau.


3.5. Kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp, bao gồm:

- Kỹ năng sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ: Hàng vi, cử chỉ, điệu bộ…

               - Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ [nói và viết].


4. Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm

Nguyên tắc giao tiếp sư phạm là hệ thống những quan điểm nhận thức chỉ đạo, địnhhướng hệ thống thái độ, hành vi ứng xử của giáo viên đối với học sinh và ngược lại. Nguyên tắc giao tiếp sư phạm mang tính chất bền vững, ổn định nhưng vẫn có độ daođộng nhất định để bảo đảm kết quả của một quá trình giao tiếp. Trong giao tiếp sưphạm, cần bảo đảm các nguyên tắc sau:

4.1. Tính mô phạm trong giao tiếp [Nhân cách mẫu mực trong giao tiếp]. Trong giao tiếp, thầy cô giáo phải bảo đảm tính mô phạm, bởi vì: - Giáo viên hàng ngày giao tiếp với học sinh, mọi hành vi, cử chỉ, cách nói năng… của thầy, cô dù có chủ định hay không đến tác động trực tiếp với các em.  - Học sinh lứa tuổi nhỏ thường bắt chước cả cái hay lẫn cái dở về hành vi, cửchỉ, cách nói năng . . . của thầy cô.Þ Nhân cách của giáo viên phải là nhân cáchmẫu mực để học sinh noi theo.  Nhân cách mẫu thực thể hiện ở: + Sự mẫu mực trong trang phục, hành vi, cử chỉ, hành vi ngôn ngữ nói . . . + Thái độ và những biểu hiện của thái độ phải phù hợp với các chuẩn hành vi. + Khi nói năng phải chọn từ sao cho có văn hóa; phong cách ngôn ngữ phong phú, phù hợp với tình huống, nội dung và đối tượng giao tiếp.


4.2. Tôn trọng nhân cách trong giao tiếp
Tôn trọng nhân cách trong giao tiếp là:

- Trong giao tiếp phải coi học sinh là con người với đầy đủ các quyền được họctập, vui chơi, lao động… với những đặc trưng tâm lý riêng, bình đẳng với mọingười trong các quan hệ xă hội. - Trong giao tiếp, giáo viên không áp đặt, ép buộc học sinh tuân theo ý thầy cômột cách máy móc bởi v́ học sinh là những chủ thể tích cực, có đặc điểm nhậnthức, thái độ và có kiểu hành vi ứng xử riêng.

Thái độ tôn trọng nhân cách học sinh có biểu hiện:

+ Tạo điều kiện để học sinh bộc lộ nét tính cách, nguyện vọng của các em. + Biết lắng nghe ý kiến, tôn trọng ý kiến, điệu bộ… của các em. + Giọng điệu, cách phát âm, cách dùng từ sao cho bảo đảm tính văn hóa. + Hành vi, cử chỉ, điệu bộ luôn ở trạng thái cân bằng, có nhịp điệu khoan ḥòa, tránh những cử chỉ, hành vi bột phát.

+ Trang phục lịch sự, gọn gàng, sạch sẽ, đúng kiểu cách.

4.3. Có thiện ý trong giao tiếp sư   phạm: thể hiện:
-   Trong giao tiếp sư phạm thầy cô luôn luôn nghĩ tốt về học sinh của mình, luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất, ưu ái nhất để học sinh học tập, lao động tốt, tạo niềm vui cho các em. không nên có thành kiến   - Giáo viên cần  biết thông cảm và hiểu biết học sinh. -   Phải luôn tin tưởng học sinh. Nếu ở học sinh còn có mặt nào chưa tốt thì thầy cô nên nghĩ rằng đó là nét tính cách chưa hoàn thiện và học sinh có thể sửachữa được.  - Luôn động viên, khích lệ tinh thần của học sinh , điều đó có ý nghĩa rất lớnđối với sự tiến bộ của học sinh. - Thiện ý của giáo viên thể hiện rõ nét trong việc chuẩn bị bài và khi lên lớp; thầy cô dốc hết tài năng và trí lực của mình phục vụ cho học sinh - Phải công bằng khi cho điểm, nhận xét, đánh giá. - Thiện ý c̣òn thể hiện trong khi giao việc để giúp học sinh sửa chữa lỗi lầm; đểhọc sinh có điều kiện phát huy khả năng , sửa chửa lỗi lầm….  - Thiện ý cũng thể hiện trong khen chê, trách phạt, phán xử chuyện quan hệgiữa học sinh với nhau.


4.4. Đồng cảm trong giao tiếp: 
- Thầy cô biết đặt mình vào vị trí của học sinh khi tiếp xúc, giải quyết các tìnhhuống giao tiếp sư phạm: nếu mình ở vị trí của học sinh thì mình sẽ ứng xử nhưthế nào? Có như vậy, thầy cô mới sống cùng niềm vui, nỗi buồn của học sinh và sẽ xử sự phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của các em. Nhờ đồng cảm vớihọc sinh mà:

- Giáo viên tạo ra được sự gần gũi, thân mật với học sinh và tạo ra được cảmgiác an toàn nơi học sinh - Thầy cô có biện pháp giảng dạy, giáo dục có hiệu quả.

- Giáo viên có cơ sở để hình thành hành vi ứng xử nhân hậu, độ lượng, khoan dung. Để có thể đồng cảm với học sinh, giáo viên phải quan tâm tìm hiểu nắmvững hoàn cảnh gia đình của học sinh.

6. Con đường h́ình thành phẩm chất, năng lực người thầy giáo:
            Các nhà Tâm lý học thường chia quá trình hình thành nhân cách ngườithầy giáo làm 3 giai đoạn: giai đoạn học ở trường phổ thông, gia đoạn học ởtrường sư phạm và giai đoạn công tác độc lập.

* Giai đoạn học ở trường phổ thông: Trong giai đoạn này, học sinh có thể hìnhthành hứng thú đối với nghề sư phạm và khuynh hướng thích hoạt động sưphạm.


* Giai đoạn học ở trường sư phạm:  Đây là gia đoạn rất quan trọng trong việchình thành khuynh hướng sư phạm, năng lực sư phạm và tính cách của ngườithầy giáo tương lai. Đó là thời kỳ nắm vững kiến thức khoa học, hình thành thếgiới quan duy vật biện chứng và niềm tin nghề nghiệp. Trường sư phạm là mộttrường dạy nghề cho nên toàn bộ nội dung, chương trình, các hình thức hoạtđộng của nó đều nhằm đào tạo người thầy giáo tương lai. Trong trường sưphạm, giáo sinh: + Được học tập các môn khoa học cơ bản, nhờ đó, họ có một trình độ chuyênmôn đáp ứng theo yêu cầu của nghề dạy học. + Được học tập các bộ môn nghiệp vụ. Các bộ môn này có ảnh hưởng rất lớnđến việc hình thành khuynh hướng sư phạm.

+ Tham gia các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Các hoạt động này,đặc biệt là hoạt động thực tập sư phạm có ảnh hưởng rất lớn đến việc hìnhthành khuynh hướng sư phạm và năng lực sư phạm ở giáo sinh. Thực tập sưphạm đặt giáo sinh vào những điều kiện rất gần với công tác độc lập sau này, họphải thực hiện các công việc của một giáo viên bộ môn, của một giáo viên chủnhiệm. Nó đ̣òi hỏi giáo sinh phải giải quyết các nhiệm vụ sư phạm cụ thể, điềunày giáo sinh nâng cao chất lượng lĩnh hội các kiến thức sư phạm, rèn luyện khảnăng áp dụng kiến thức lý thuyết vào thực tế. Bên cạnh việc học tập và rènluyện theo nội dung đào tạo của nhà trường sư phạm, việc tự giáo dục của giáosinh có vai tṛò quan trọng trong việc hình thành phẩm chất và năng lực củangười thầy giáo.


* Giai đoạn tự hoàn thiện nhân cách của người thầy giáo trong quá trìnhcông tác. Việc tự hoàn thiện nhân cách của người thầy giáo diễn ra theo hai mặt: + Sự bổ sung thường xuyên các thông tin nghề nghiệp văn hóa chung.

+ Sự đổi mới thường xuyên kinh nghiệm xă hội của cá nhân trong phạm vi rộngnhất. Trong việc tự hoàn thiện nhân cách của người thầy giáo thì việc bổ sung các tri thức về bộ môn giảng dạy và tìm hiểu những tài liệu mới nhất của khoa học tương ứng với bộ môn đó, sự phát triển tri thức và kỹ năng giáo dục học, tâm lý học, phương pháp giảng dạy bộ môn là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong gia đoạn công tác độc lập, việc tự hoàn thiện nhân cách của người thầygiáo được thực hiện:

- Qua việc tự tu dưỡng, tự rèn luyện. - Tự học, tự nghiên cứu sách, báo, tài liệu chuyên ngành . . . - Học theo lớpbồi dưỡng, nâng cao.

- Dự giờ đồng nghiệp

               - Tự rút kinh nghiệm các giờ dạy . . .

BÀI TẬP THỰC HÀNH

Bài tập 1: Hãy nhận xét các cách xử lý tình huống sư phạm sau đây:

Tình huống 1: Cuối giờ dạy, có một học sinh đặt cho bạn một câu hỏi mà bạn không trả lời ngay được cho phù hợp với kiến thức của các em. Các cách xử lý như sau:

a.     Thừa nhận với học sinh rằng, thầy cũng không trả lời được câu hỏi này.

b.     Nói với học sinh đó rằng: “Chính thầy cũng đang muốn đặt câu hỏi này cho cả lớp về nhà suy nghĩ.” Về nhà, thầy sẽ tìm sách đọc thêm và trao đổi với đồng nghiệp để tìm cách, giờ dạy sau sẽ trả lời câu hỏi đó.

c.      Không trả lời câu hỏi đó, tiếp tục giao bài tập về nhà cho các em sẽ suy nghĩ

Tình huống 2: Nhà trường yêu cầu giáo viên chủ nhiệm chọn ra một học sinh trong lớp để được nhận phần thưởng về “Sự phấn đấu trong học tập và rèn luyện”. Trong lớp có 4 trường hợp sau đây. Các cách chọn như sau:

a.     Xuân: Học sinh giỏi liên tục 3 năm nay.

b.     Hạ: Học sinh khá, nhưng đối sử tốt với mọi người, nên thầy cô và bạn bè yêu quý

c.      Thu: Từ kết quả học tập yếu kém đã cố gắng vươn lên loại khá.

d.     Đông: Từ một học sinh ngỗ ngược, hư …đã nhận ra lỗi lầm và có nhiều tiến bộ.

Tình huổng 3: Trong giờ chữa bài tâp toán, Có một học sinh giải được bài toán bằng phương pháp độc đáo, ngắn gọn hơn cách giải của giáo viên. Các cách xử lý của giáo viên như sau:

a.     Cho là bình thường và cho học sinh đó được điểm tối đa

b.     Không tiếc lời khen ngợi em, nào là thông minh, nào là nhà toán học trẻ.

c.      Nói với cả lớp rằng một bài toán có thể có nhiều cách giải khác nhau, Lời giải của cô chỉ là một cách. Các em hãy cố gắng để tìm ra nhiều cách giải cho một bài toán.

Tình huống 4: Thầy giáo đang giảng bài, bất chợt một học sinh đứng dậy nói:“Thưa thầy, thầy giảng chầm chậm thôi để chúng em còn ghi bài ạ”. Các cách xử lý của thầy như sau:

a.     Quắc mắt nhìn thẳng vào học sinh đó và nói:“Thầy đang giảng bài, không được có ý kiến”

b.     Nói với cả lớp rằng:“Các em lớn rồi, phải biết cách tự ghi bài chứ.”

c.      Nói với cả lớp rằng: “ Bài hôm nay hơi dài, thầy sẽ cố gắng nói chậm hơn, nhưng các em cũng phải cố gắng tập trung nghe giảng và ghi bài nhanh hơn”

Tình huống 5: Trong giờ sửa bài tập toán, cô giáo gọi Thu lên bảng giải bài toán, em loay hoay mãi mà vẫn chưa giải được, thỉnh thoảng lại quay xuống các bạn để cầu cứu. Nếu xử lý tình huống này theo cách sau đây thì sẽ như thế nào?:

a.     Yêu cầu Thu về chỗ và cho điển 0.

b.     Đặt ra một số câu hỏi gợi ý để học sinh này tìm ra cách giải.

c.      Nói với Thu: “Dốt quá em ơi! Về nhà làm gì mà không học bài, em về nhận điểm 0 và về chỗ.”

Tình huống 6: Giờ học đã bắt đầu được 10 phút, thầy Hải chưa đến. Tất cả học sinh đang reo hò vui sướng thì thầy Hải xuất hiện và chứng kiến được thái độ của học sinh. Sẽ như thế nào nếu thầy Hải xử lý theo các cách sau đây:

a.     Thầy giáo lờ đi, coi như không thấy gì và vào lớp bình thường.

b.     Thầy bước vào lớp và thành thật xin lỗi các em về việc đến muộn của mình. Sau đó thầy nhẹ nhàng nhắc nhở về thái độ của các em và khẩn trương bắt đầu bài giảng.

c.      Thầy bước vào lớp với thái độ tức giận và phê bình ngay ý thức học tập của học sinh.

Bài tập 2: Thử đề xuất 4 cách xử lý cho mỗi tình huống sau đây:

Tình huống 1: Khi chấm bài tập làm văn của học sinh, giáo viên phát hiện thấy bài của Nam giống y như trong sách “ Các bài văn mẫu”. Giáo viên có thể xữ lý như thế nào?

Tình huống 2: Trong tiết học Lịch sử, giáo viên đang giảng bài thì phát hiện có mấy học sinh đang làm bài tập môn Toán. Giáo viến có thể xử lý như thế nào?

Tình huống 3: Sau khi trả bài kiểm tra môn Toán, em Thanh mang 2 bài kiểm tra lên nói: “Thưa thầy, sao bài của em gống bài của Mạnh mà Mạnh được 10 điểm, em chỉ được 7 điểm?” Xem lại, thấy  đúng là hai bài giống nhau nhưng bài của Thanh đã chấm đúng, còn bài của Minh, thầy đã không thấy chỗ sai.” Hãy nêu các hướng giải quyết có thể cho giáo viên này.

Tình huống 4: Thầy đang giảng bài thì ở dưới lớp, một học sinh nam đang giật đuôi tóc một bạn nữ, em nữ kêo lên và cả lớp quay về phía hai học sinh đó. Giáo viến có thể xử lý như thế nào?

Tình huống 5: Thầy vừa vào lớp, một học sinh tên Huy với dáng vẻ ngổ ngáo, đi sau nhạo dáng điệu của thầy.Sau đó thầy giảng bài về hoa quả.Thầy gọi một vài học sinh yêu cầu nêu tên một số loại quả. Các em nêu :xoài, đu đủ, quýt…Đến lượt thầy gọi Huy cũng với yêu cầu trên. Huy hét to: “ Quả lựu đạn” . Hãy nêu các hướng giải quyết giúp cho giáo viên này.

Tình huống 6: Sau giờ kiểm tra, lúc đến chỗ để xe chuẩn bị ra về, cô giáo H tình cờ nghe được câu chuyện của hai học sinh với nhau: “ Hôm trước cô giảng bài, bạn có hiểu gì không ? Tớ chả hiểu gì cả , nên hôm nay làm bài không được.” “ Tớ cũng vậy. Chẳng hiểu sao, cô H dạy dở như thế mà trường cứ cho cô dạy hoài.” Bạn hãy gợi các hướng giải quyết cho cô H.

Tình huống 7: Đang là giám thị coi thi cùng với một giám thị khác, H phát hiện thí sinh tên T đang sử dụng tài liệu. Nhưng thí sinh đó lại là em của người yêu H. Hãy đề xuất các hướng giải quyết cho H.

Tình huống 8: Sau khi chấm bài xong, giáo viên giao cho lớp trưởng phát lại tập cho các bạn. Bỗng lớp trưởng giơ lên cuốn tập không biết của ai vì không có nhãn. Giáo viên lớn tiếng hỏi:

- Vở này của ai? Thầy đã quy định dán nhãn vở từ đầu năm, sao không thực hiện? Lớp trưởng mở ra xem nét chữ rồi hốt hỏang thưa:

- Thưa thầy…đây là cuốn tập soạn bài của thầy ạ!

 Giáo viên nên xử lý như thế nào?

Tình huống 9: Bạn đang trình bày tiết thao giảng của mình trước ban thi đua. Trong lúc cả lớp tập trung theo dõi bài học, bạn phát hiện thấy một học sinh ngồi ngay trước Ban thi đua đang nằm ngủ say sưa trên bàn. Bạn ứng xử như thế nào?

Tình huống 10: Trong giờ ra chơi, một giáo viên đi qua sân trường. Có một học sinh đang nô giỡn, đã đâm sầm vào người giáo viên đó. Bạn nêu các thái độ ứng xử giúp giáo viên.

Video liên quan

Chủ Đề