Nhà nước đã tăng cường công tác quản lý về tài nguyên môi trường như thế nào

[Quang Binh Portal] - Thời gian qua, cùng với công tác quản lý, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên trên địa bàn tỉnh ngày càng chặt chẽ, hiệu quả, vấn đề quản lý, bảo vệ môi trường cũng được chú trọng, tăng cường, qua đó góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư của địa phương.

Theo đó, việc giao đất, cho thuê đất được triển khai thực hiện kịp thời hiệu quả, đúng quy định của pháp luật. Từ năm 2015 đến nay, UBND tỉnh đã quyết định giao đất cho 392 trường hợp với diện tích 1.125,88 ha; quyết định cho thuê đất 359 trường hợp với diện tích 1.620,89 ha; thực hiện đo đạc, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nhiều chuyển biến tích cực. Đến nay, toàn tỉnh đã cấp 544.103 giấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 593.924,46 ha/618.550,50 ha, đạt tỷ lệ 96,13% và là một trong những địa phương đi đầu toàn quốc trong cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Công tác rà soát, kiểm tra và thu hồi đất của các công trình, dự án chậm tiến độ, vi phạm pháp luật về đất đai thường xuyên được triển khai thực hiện; tiếp tục từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; tháo gỡ những vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng tạo điều kiện cho các dự án đẩy nhanh tiến độ, đặc biệt là những dự án trọng điểm của tỉnh. Đối với vấn đề phát triển quỹ đất cũng được tỉnh thực hiện có hiệu quả, giải quyết tốt nhu cầu đất ở cho Nhân dân và huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh công tác quản lý tài nguyên khoáng sản đi vào ổn định, nề nếp, chặt chẽ, việc sử dụng tài nguyên tiết kiệm và hiệu quả hơn. Toàn tỉnh đã thực hiện tốt việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, cấp phép hoạt động khoáng sản theo quy hoạch.

Đặc biệt, công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét. Chất lượng thẩm định, đánh giá tác động môi trường thường xuyên được quan tâm nâng cao; hoạt động kiểm soát ô nhiễm, quản lý chất thải, thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp, quản lý ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản được tăng cường đẩy mạnh, thực hiện nghiêm túc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước. Các điểm nóng về ô nhiễm môi trường cơ bản đã được kiểm soát, xử lý; đồng thời từng bước khắc phục được tình trạng gây ô nhiễm môi trường tại khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, bệnh viện, nơi công cộng, khu vực nông thôn, miền núi. Hiện, trên địa bàn có 02 nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt đang triển khai thực hiện gồm Nhà máy Phân loại xử lý rác thải, sản xuất biogas và phân bón khoáng hữu cơ tại xã Lý Trạch [huyện Bố Trạch] do Công ty TNHH Phát triển dự án Việt Nam đầu tư đã hoàn thành dây chuyền phân loại, đi vào hoạt động thử nghiệm và Nhà máy Xử lý rác thải tại xã Quảng Tiến [huyện Quảng Trạch] do Công ty TNHH Môi trường xanh miền Trung đầu tư đã hoàn thành mặt bằng, chuẩn bị triển khai xây dựng. Theo số liệu báo cáo, tỷ lệ thu gom rác thải trên địa bàn toàn tỉnh đạt khoảng 77,5%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được xử lý, chôn lấp hợp vệ sinh 100%. Việc thực hiện đánh giá tác động môi trường của các dự án đã được chú trọng. Công tác cải tạo phục hồi môi trường có nhiều tiến bộ, nhất là việc quản lý, quan trắc, cảnh báo khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường biển do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra...

Ngoài ra, hoạt động thanh, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh của cử tri, người dân, báo chí cùng công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên và môi trường đã được quan tâm thực hiện tốt với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tiếp tục từng bước đưa pháp luật về tài nguyên và môi trường đi vào đời sống, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.

Tuy vậy, tình trạng vi phạm pháp luật về đất đai, khai thác lâm sản trái phép còn xảy ra; công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mặc dù có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn một vài trường hợp chưa được thực hiện; thị trường bất động sản một số thời điểm có dấu hiệu “sốt, nóng”; giải phóng mặt bằng một số công trình, dự án gặp nhiều vướng mắc. Cùng với đó, vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên chưa đảm bảo yêu cầu, nhất là một số loại tài nguyên khai thác, sử dụng, bảo vệ chưa hiệu quả. Quản lý chất thải còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế phát sinh. Tình trạng ô nhiễm môi trường cục bộ tại một vài nơi vẫn xảy ra. Khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai chưa cao; công tác ứng phó còn bị động, thiếu đồng bộ...

Thời gian tới, tỉnh sẽ tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai; coi trọng việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường; quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất, nước, khoáng sản theo nguyên tắc thị trường; xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đất đai, tài nguyên, môi trường; thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch khoáng sản; phát triển quỹ đất, đẩy mạnh đấu giá quyền sử dụng đất tạo nguồn thu ngân sách; ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt nguồn nước; nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường đối với các dự án; kiểm soát chặt chẽ, xử lý nguồn thải, thực hiện việc phân loại rác thải tại hộ gia đình; khuyến khích, thu hút nhà đầu tư cung cấp dịch vụ thu gom, xử lý, tái chế chất thải; phát huy nhà máy xử lý rác thải hiện có; tăng cường công tác thanh, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường.

Song song với đó, địa phương cũng xây dựng, thực hiện tốt Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, theo dõi chặt chẽ diễn biến thiên tai; xây dựng hệ thống những giải pháp căn cơ, bài bản để chủ động phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt trong điều kiện biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại; đồng thời bố trí nguồn chi ngân sách thích đáng, kết hợp xã hội hóa các nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, nhất là các loại hình thiên tai như bão mạnh, lũ lớn, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán…

PV Minh Huyền

[TG] - Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia.

TRÁCH NHIỆM CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ TOÀN DÂN

Môi trường ngày càng trở thành vấn đề nóng của thời đại, của toàn cầu, ảnh hưởng ngày càng lớn đến phát triển kinh tế bền vững, đến chất lượng cuộc sống, sức khỏe của nhân dân. Ở nước ta, vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết. Đại hội XIII đặc biệt quan tâm và có nhiều quan điểm, chủ trương cụ thể, mới về vấn đề này. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã cụ thể hóa, đưa ra những nội dung cốt yếu cho giai đoạn tới, trong đó nhấn mạnh là: “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”[1].

Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế - xã hội quốc gia. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở nước ta được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước”. Trong đó, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Chính phủ quy định chi tiết trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Luật cũng quy định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân dân các cấp là những cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý tại các địa bàn.

Ngay từ năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5/2007 quy định tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.

Theo đó, thành lập các cơ quan chuyên môn bảo vệ môi trường tại một số Bộ như: Xây dựng, Giao thông vận tải, Công thương, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với sự thành lập các cơ quan chuyên môn bảo vệ môi trường, các Bộ, ngành sẽ phối hợp với Bộ TNMT, các tổ chức và cá nhân trong việc giám sát, thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường trong ngành, lĩnh vực.

Với quy định này, các bộ, ngành, địa phương đều nhìn thấy trách nhiệm của mình trong bảo vệ môi trường.

KHẮC PHỤC SỰ CHỒNG CHÉO

Trong thực tiễn, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường những năm qua còn tồn tại điểm nghẽn là sự phân định nhiệm vụ chưa rõ ràng, khoa học, việc thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước ở cả Trung ương và địa phương còn yếu nên chưa phát huy được sức mạnh tổng thể của cả hệ thống. Những bất cập này dẫn đến việc đùn đẩy, né tránh tránh nhiệm, “quyền anh, quyền tôi” trước các vấn đề môi trường, có khi lại dẫm chân, chồng chéo lên nhau, khiến cho hệ thống quản lý vận hành kém trơn tru và thiếu hiệu quả.

Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 được Quốc hội ban hành ngày 17/11/2020 có hiệu lực từ 1/1/2022 có nhiều điểm mới. Lần đầu tiên chế định về thẩm quyền quản lý nhà nước dựa trên nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương.

Vấn đề đặt ra là, theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, thì các Bộ, ngành và địa phương đều cùng với Bộ Tài nguyên và Môi trường tham gia quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được giao theo luật. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, sự tham gia của các Bộ, ngành trong công tác bảo vệ môi trường sẽ gặp hạn chế do thiếu một trong những công cụ quản lý nhà nước quan trọng nhất, đó là công cụ thanh tra, kiểm tra.

Tại Khoản 1 Điều 160 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường bao gồm: Bộ trưởng các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp. Đối với các Bộ chuyên ngành như: Xây dựng, Công Thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Y tế… thì Luật Bảo vệ môi trường không quy định rõ nội dung này. Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 167 Luật Bảo vệ môi trường quy định “Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường”. Như vậy, có thể thấy việc giao chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước nhưng không kèm theo các công cụ dẫn tới các Bộ chuyên ngành sẽ khó khăn trong quá trình thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình theo luật định.

Việc khắc phục chồng chéo không có nghĩa là cắt bỏ công cụ để thực thi, triển khai chức năng, nhiệm vụ hiệu quả. Do đó, cùng với việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các Bộ, ngành theo hướng một cơ quan có thể làm nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một cơ quan thực hiện thì việc điều chỉnh lại phân công về quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cần thiết, đồng thời, phải bảo đảm được tính hiệu lực, hiệu quả của cơ quan thực hiện.

Để thực thi được chức năng quản lý nhà nước của mình các cơ quan cần có các công cụ. Đó là: [1] Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; [2] Tổ chức thực thi hệ thống văn bản pháp luật; [3] Kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật đối với các đối tượng chịu tác động; [4] Phân tích, đánh giá và tiếp nhận các phản ánh về các chính sách đó để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Một trong những công tác quan trọng của công tác bảo vệ môi trường là thường xuyên tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đây không chỉ là việc của những cơ quan phụ trách mà là công việc của cả hệ thống chính trị và toàn dân, bởi vì “lãnh đạo thì phải kiểm tra, không kiểm tra coi như không lãnh đạo”[2].

Để giải quyết các vướng mắc này, trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, Chính phủ nên có quy định rõ hơn về chức năng, thẩm quyền thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trên nguyên tắc đã giao nhiêm vụ thì cần giao công cụ để thực thi các nhiệm vụ đó và việc thực thi đó cần đảm bảo không gây chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp theo đúng tinh thần của Chỉ thị số 20/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tránh đến khi gặp khó khăn, vướng mắc thì các cơ quan lại đùn đẩy, né tránh trách nhiệm.

Trước đây, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản để bổ sung các chức năng, nhiệm vụ và công cụ quản lý nhà nước để thực thi các nhiệm vụ được giao. Trong đó có Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2012 quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành; Nghị định số 122/2014/NĐ-CP ngày 25/12/2014 về tổ chức và hoạt độngcủaThanh tra y tế…]. Theo đó, quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và thanh tra chuyên ngành đều giao cho các Bộ chuyên ngành được thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong phạm vi quản lý.

Trong bối cảnh môi trường ngày càng báo động, sự chung tay của các ngành, các cấp, các cơ quan truyền thông và mọi người dân là điều vô cùng quan trọng để chúng ta cùng nhau đẩy lùi các bức xúc về ô nhiễm môi trường, thực hiện các quan điểm, mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, đưa đất nước ta phát triển một cách bền vững. Trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và ban hành các chính sách, cũng như các chế tài để răn đe, xử lý khi xảy các hành vi vi phạm về công tác bảo vệ môi trường. Chính sách phải tốt, phù hợp với thực tiễn, phù hợp với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới đi vào được cuộc sống. Đồng thời các chế tài được ban hành cũng phải đảm bảo các chính sách được thực thi hiệu quả, đảm bảo tính răn đe đối với các tổ chức, cá nhân có ý định thực hiện các hành vi vi phạm trong công tác bảo vệ môi trường. Đây đều là những cơ sở quan trọng để công tác bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả cao.

Tuấn Hưng

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: , Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr 116-117.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: , Nxb. Sự thật, H, 1982, t.3, tr. 122 -123.

Video liên quan

Chủ Đề