Những khó khăn tâm lý của học sinh tiểu học

NHŨNG KHÓ KHĂN của học SINH TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  [412.73 KB, 15 trang ]

PHÒNG GIÁO DỤC QUẬN ....
TRƯỜNG MẪU GIÁO ....

-----------

Bài tập nghiệp vụ sư phạm

PHÂN TÍCH NHỮNG KHÓ KHĂN ĐỐI
VỚI HỌC SINH LỚP 1


1.

LÝ DO CHON ĐỀ TÀI

Lớp 1 có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ
thông nói chung và trong bậc tiểu học nói riêng. Từ mẫu giáo lên lớp 1 là
một bước ngoặc quan trọng đối với học sinh. Quá trình chuyển đổi hoạt
động chủ đạo từ vui chơi ở mẫu giáo sang hoạt động học tập ở tiểu học sẽ
gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, trong đó có những khó khăn về tâm lý. Vì
vậy nếu hiểu được những khó khăn tâm lý của trẻ em và có biện pháp giúp
trẻ khắc phục thì trẻ sẽ thích nghi với hoạt động học tập tốt hơn, tiếp thu sự
giáo dục được thuận lợi hơn. Từ đó giúp trẻ đạt kết quả cao trong hoạt động
học tập và phát triển tốt tâm lý cũng như nhân cách của trẻ.
Trẻ mẫu giáo 5 tuổi bước vào học lớp 1 là việc trẻ được chuyển sang
một lối sống mới vố những hoạt động mới, những mối quan hệ mới của
những học sinh thực thụ, không giống như ở mẫu giáo trẻ vừa học vừa chơi,
nếu như ở mẫu giáo không chuẩn bị tốt cho trẻ những kiến thức cần thiết
như : Thể chất, tâm lý xã hội  Thì khi bước vào lớp 1 trẻ sẽ bỡ ngỡ không
thích ứng với cuộc sống và học tập ở trường phổ thông, trẻ ít được tiếp xúc
với những người xung quanh dẫn đến trẻ rất nhút nhát sợ thầy cô sợ bạn bè.


Hiện nay nước ta hiện nay có hơn một triệu học sinh đi học lớp 1 và
thu hút được sự quan tâm chú ý của các bậc phụ huynh cũng như của xã hội.
Tuy nhiên áp lực từ phía phụ huynh từ phía nhà trường tới trẻ đi học lớp 1
trên thực tế vẫn đang diễn ra dẫn đến những khó khăn tâm lý cho trẻ khi đi
học.
Qua khảo sát thử cũng như quan sát trên học sinh lớp 1, Qua trò
chuyện với các giáo viên dạy lớp 1 , chúng tôi nhận thấy. Học sinh khi học
lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn tâm lý và những khó khăn này cản trở hoạt
động học tập và sinh hoạt của trẻ trong nhà trường từ trước đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu về học sinh lớp 1, song những khó khăn tâm lý
của trẻ còn ít được nghiên cứu, Bởi vậy, nghiên cứu những khó khăn tâm lý
của trẻ đầu lớp 1 là cần thiết để giúp các bậc phụ huynh, các thầy cô giáo,
những người làm công tác giáo dục, nhận thức được các khó khăn tâm lý của
trẻ khi vào học lớp 1 và cò biện pháp thích hợp nhằm khắc phục và hạn chế
khó khăn tâm lý cho trẻ đầu lớp 1.
Đối với một số các bậc phụ huynh việc con em họ vào lớp một chỉ
như một sự tự nhiên, không cần băn khoăn suy nghĩ,  Đến tuổi nhà nước bắt
đi học chữ thì đi học thôi ,  Rồi sẽ tự biết con chữ, còn nếu không có điều
kiện học tiếp hoặc không học được nữa thì nghỉ học . Không cần chuẩn bị
tâm thế, không cần biết đến sức khỏe trẻ là gì - đó chính là những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trẻ lưu ban, ngồi nhầm lớp, bỏ học giữa chừng.
Trước thực trạng này, chúng tôi thấy cần thiết phải có những nghiên cứu về


những khó khăn và có biện pháp giải quyết khi chuẩn bị cho trẻ vào học lớp
một
2. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn, phát hiện những khó khăn tâm lý
của trẻ đầu lớp 1 và một số nhân tố dẫn tới những khó khăn đó. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp tác động đến giáo viên và cha

mẹ học sinh nhằm giúp học sinh khắc phục khó khăn tâm lý và học tập tốt.

3. Đối tượng nghiên cứu
Khó khăn tâm lí của học sinh đầu lớp 1.
Điều khó khăn nhất của trẻ từ Mầm non lên Tiểu học là trẻ đang ở
trong môi trường học tập mà các hoạt động chơi là chủ yếu, khi bước vào
bậc học Tiểu học bé bắt đầu làm quen với cách học, tư duy và các hoạt động
khác, bé làm quen với sách vở, đồ dùng học tập và các nội quy của nhà
trường. Trẻ phải thực hiện các quy định đi học đúng giờ, chuẩn bị đầy đủ đồ
dùng học tập, tính chuyên cần, cố gắng trong học tập, có tính độc lập trong
cuộc sống, sinh hoạt trường.
Hành trang cho bé vào lớp 1 không chỉ là việc biết chữ. Nhiều trẻ
đến tuổi đi học lớp 1 nhưng không biết tự đi vệ sinh hoặc không biết xúc
cơm ăn, chưa có những thói quen tự phục vụ bản thân trong những việc đơn
giản do chưa từng được bố mẹ chuẩn bị cho những thói quen này. Và chính
những biểu hiện "vụn vặt" này khiến trẻ thấy tự ti trước bạn bè và sợ đi học.
Môi trường học tập thay đổi một cách cơ bản: Trẻ phải tập trung chú ý
trong thời gian liên tục từ 30  35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu
kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu kiềm chế
dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp
hành nội quy học tập. Tính nhạy và sức bền vững, tính khéo léo của các thao
tác của đôi bàn tay để tập viết được phát triển nhanh. Tất cả những điều đó
đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những thử thách đó
thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa
trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
Khác với thời gian biểu ở khối mầm non chủ yếu là ăn ngủ và chơi,
lên đến tiểu học, các học sinh cần có đầy đủ năng lượng cho trí não duy trì
sự tập trung tiếp nhận được kiến thức.



Đồng thời, do điều kiện ăn ở, sinh hoạt ở trường tiểu học có sự khác
biệt rất lớn với trường mầm non nên trẻ cần có một sức khỏe tốt, ổn định để
có thể đi học đều dặn.
4. Những áp lực từ bên ngoài có thể có đối với trẻ
Áp lực từ phía nhà trường: Mục tiêu thành tích của nhà trường, mối
quan hệ với giáo viên không tốt hoặc sự thiên vị, so sánh giữa các học sinh
của giáo viên hoặc đối xử phân biệt giữa các học sinh có thể có những tác
động tiêu cực đến trẻ.
Áp lực từ phía gia đình: Khi học mầm non, trẻ đến trường hoàn toàn
là để vui chơi, bố mẹ chưa đặt cao mục tiêu giáo dục, thành tích cho con.
Tuy nhiên, khi lên học tiểu học, nhiều phụ huynh quan tâm quá nhiều đến
thành tích học tập, điểm số đã vô tình tạo nên áp lực cho trẻ. Nhiều phụ
huynh còn sắp xếp cho con mình một lịch học chính, học thêm dày đặc, ép
con học khiến trẻ không còn thời gian vui chơi, thư giãn. Nhiều cha mẹ còn
chạy đua thành tích cho con vào trường chuyên.
Khó khăn tự phục vụ: Trẻ phải tự đi vệ sinh, tự rửa tay, mặc quần
áo, sắp xếp sách vở vào ba lô, cất sách vở ở đúng ngăn, kiểm tra sách vở
trước khi về
Trẻ cần được làm quen với môi trường lớp 1, được nghe kể, biết về
môi trường mới và nhiệm vụ của mình khi đi học.
Khó khăn tính kỷ luật: Có khả năng kiềm chế bản thân, không chạy
lung tung, tập trung chú ý được trong khoảng thời gian 30-35 phút, chấp
hành được những nội quy của trường tiểu học.
Khó khăn về nhận thức : Nhận biết số, cộng trừ trong phạm vi 10,
nhận biết mặt chữ và ghép vần, biết cách cầm bút và viết được nét sổ ngang,
sổ dọcgây cho trẻ sự lung túng và nhiều trẻ không thực hiện được dẫn đến
kết quả học tập kém.
Trẻ phải chuẩn bị tâm thể sẵn sàng đi học: Học cả buổi, về nhà
phải viết bài, kỹ năng trả lời khi cô giáo gọi lên phát biểu, trẻ cần học cách
yêu quý sách vở, cất và giữ gìn cẩn thận.

Khó khăn trong cách ứng xử các tình huống: Một số trẻ bố mẹ đến
đón muộn, bị bạn đánh, mắc lỗi khi học bàitrẻ không biết xữ lý như thế
nào ngoài khóc hoặc đánh lại bạn, sợ bị bỏ rơi. Gây ức chế tâm lý cho trẻ.
Trong đời người thường có những mốc quan trọng ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của các giai đoạn tiếp theo. Bắt đầu lớp 1 là một trong


những mốc quan trọng. Đó là khi các con của chúng ta bắt đầu đặt lớp móng
đầu tiên cho  Ngôi nhà tri thức của mình.
Thông thường ở những mốc quan trọng đó, con người thường gặp gỡ
những điều mới lạ, thú vị, nhưng cũng phải đương đầu với nhiều thách thức
khó khăn, thời gian bắt đầuhọc lớp 1 cũng vậy, con trẻ sẽ tìm thấy nhiều
điều thích thú, nhưng cũng gặp không ít bỡ ngỡ khó khăn.
Tâm thế sẵn sang của học sinh đầu lớp 1 là trạng thái chủ quan của
học sinh thể hiện sự sẵn sàng tham gia hoạt động học tập, tâm thế sẵn sàng
đi học được thể hiện trong các mặt cảm xúc, tình cảm , ý chí và định hướng
cho các quy trình tâm sinh lý của học sinh diễn ra theo một cách nhất định
khi tham gia vào hoạt động học tập
Mặc dầu các cháu đã từng trãi qua đời học sinh ở mẫu giáo. Nhưng
môi trường học tập ở mẫu giáo khác xa so với tiểu học nói chung và lớp 1
nói riêng. Ở mẫu giáo hoạt động vui chơi là hoạt động chính, tính kỹ luật
không đòi hỏi cao, các cháu chủ yếu tham gia những hoạt động tập thể, ít
phải mang, sữ dụng, bảo quản dụng cụ học tập cá nhân, tư thế ngồi học
tương đối tự do, thoải mái,..Trong khi đó ở lớp 1 hoạt động học tập [ Lao
động trí tuệ ] là hoạt động chính, các cháu phải thực hiện nhiều hoạt động cá
nhân như : Viết bài, làm toán, học đọc.Đòi hỏi tính kỹ luật, khả năng tập
trung học tập cao . Các cháu phải tự chuẩn bị các dụng cụ học tập của mình,
biết sữ dụng và giữ gìn chúng lâu dài, có nhiều điều bố mẹ muốn làm giúp
con cũng không được, bởi vì trẻ phải tự làm mới có ích cho mình, ở một góc
độ nào đó có thể so sánh việc trẻ vào học lớp 1 với một người lớn sắp ra ở

riêng phải chuẩn bị nhiều đồ đạc và phải tự lo liệu cuộc sống của mình.
Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy học sinh lớp 1 gặp một số
khó khăn trong việc thực hiện nề nếp học tập trong thời gian đầu như :
Khó khăn trong học tập :
Khó khăn này thường bắt gặp ở trẻ khi đã vào học được vài tuần, lúc
đầu là tâm lý sẵn sàn đi học, trẻ háo hức, vui vẽ đến trường, mong chờ ngày
khai giảng, tự hào với vị thế mới Lúc này trẻ chưa ý thức được việc học
hành nghiêm túc mà tự do hoàn cảnh tạo ra cảm xúc mới lạ [ Mặc đồng
phục, đeo cặp sách, thức dậy sớm, tự chuẩn bị đồ dùng ].Xong không it
trường hợp sau đó trẻ lại chán nản, vì quá trình dạy học ở lớp 1 diễn ra như
một quá trình vận động trí tuệ để thu nhận tri thức khoa học, phương thức
học tập khác. Do đó sau vài tuần, vẽ bề ngoài của nhà trường đã mất đi sự
quyến rũ, hấp dẫn, trẻ thường lơ đễnh, làm việc riêng, không còn hứng thú
học tập. Để khôi phục hứng thú của trẻ, đòi hỏi phải có sự kiên trì của giáo
viên và phụ huynh


Khó khăn thường gặp nhất:  Phải giơ tay xin phép cô khi muốn phát
biểu ý kiến. Do mới vào lớp 1 nên việc giơ tay xin phát biểu ý kiến ở nhiều
trẻ chưa thành thói quen [ Nhất là với những trẻ chưa học qua lớp mẫu
giáo ], Ở một số trẻ thói quen này tuy đã hình thành ở lớp mẫu giáo những
sau ba tháng nghĩ hè thói quen này không được duy trì
Một số phụ huynh bắt ép, tạo áp lực cho trẻ phải học trước chương
trình lớp 1 trước khi trẻ ào học lớp 1 như : Tập cho trẻ viết chữ , dạy trẻ
làm tính, đọc chữ Không ít phụ huynh đã bắt trẻ phải ngồi vào bàn học để
học một cách nghiêm túc, tướt bỏ hầu như mọi thời gian vui chơi, hoạt động
vận động, khám phá mà trẻ vốn ham thích và rất cần cho sự phát triển cho
trẻ lúc này. Có trẻ khi vào lớp 1 thì đã học xong một phần hay toàn bộ
chương trình lớp 1,Tưởng chừng việc dạy học trước sẽ giúp trẻ học giỏi khi
vào trường tiểu học, nhưng thật ra việc làm đó là không phù hợp với quy luật

phát triển của trẻ dưới 6 tuổi, Cho nên khi trẻ vào học lớp một phải học lại
những kiên thức cũ trẻ sẽ cảm thấy chán nản không muốn học, không chú ý,
không nghe lời cô giáo.Trẻ em không được chuẩn bị về tiền đề tâm lý và 5
mặt phát triển thì khi vào lớp 1 trẻ sẽ dễ bị sốc vì môi trường hoàn toàn trái
ngược , tâm lý của trẻ sẽ không có sự háo hức ham muốn đi học
Khi trẻ lên học lớp 1 do nội dung, tính chất, mục đích các môn học
thay đổi so với bậc học mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về
Phuong pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý
và có ý thức học tập tốt hơn nhằm thích ứng với những yêu cầu mới cũng
như nhằm đạt kết quả học tập tốt.
Với trẻ đầu lớp một, cùng một lúc, trong một thời gian ngắn trẻ phải
thích ứng với rất nhiều cái mới ở trường tiểu học. Vào ngày đầu lớp 1,
không ít trẻ đã khóc, bám lấy phụ huynh gương mặt lo âu đầy sợ
hãi.Nhưng bên cạnh đó, một số trẻ lại rất tự tin, năng động ngay từ buổi
đầu tiên đến lớp một. Sự khác biệt này không đơn thuần xuất phát từ đặc
điểm riêng về mặt tâm lý cá nhân như : Có thể nhút nhát, có thể mạnh dạn
mà phần lớn được quyết định bởi sự chuẩn bị của người lớn, quan trọng
nhất là các bậc phụ huynh và giáo viên mầm non để trẻ thích ứng với môi
trường phổ thông.
Nếu không chuẩn chuẩn bị chu đáo về nhiều mặt trước khi vào học
lớp 1 thì việc học tập của trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ, lung túng và
nhút nhát khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè, cuộc sống của trẻ sẽ trở nên
nặng nề và căn thẳng, nhiều trường hợp rơi vào trạng thái khủng hoảng, sợ
đi học dẫn tới kết quả học tập hạn chế, ảnh hưởng tới quá trình học tập sau
này của trẻ.


Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới



Ở tuổi mẫu giáo, quy định trong sinh hoạt là những ước định mang
tính cá thể vui chơi  thỏa mãn nhu cầu. Ở trường tiểu học và trường phổ
thông, sinh hoạt mang tính nguyên tắc, quy tắc đối với giờ học  giờ chơi
Kiến thức, kỹ năng, định lượng, bài học bắt buộc phải thực hiện với chế độ
học tập mới, trẻ bị ức chế khi các thói quen bị kiềm hảm, đôi khi bộc phát bị
phê bình khiến trẻ chán nản, mong hết giờ để chơi. Kết quả học tập kém,
chán nản.Vai trò của giáo viên ở trường mầm non rất cần thiết nhằm hỗ
trợ trẻ làm quen với chế độ sinh hoạt ở phổ thông giảm bớt tình trạng căng
thẳng trong quá trình chuyển đổi từ thói quen sinh hoạt tự do sang sinh hoạt
theo quy định có tính nguyên tắc. Điều này dựa trên những cơ sở về sự kế
tục giữa hai cấp học đã xác lập. Sự kế tục giữa hai cấp học là tiền đề quan
trọng giúp tháo bỏ những trở ngại tâm lý khi trẻ thực sự bước vào môi
trường mói với hoạt động chủ đạo mới
Những trẻ không được chuẩn bị sẽ không thích ứng tốt với môi
trường mới tại vì : Qua tiểu học trẻ phải thay đổi môi trường học tập, môi
trường giao tiếp được mở rộng ra. Trẻ được tiếp xúc với nhiều người phát
triển thêm vốn ngôn ngữ cho trẻ, môi trường học tập bắt buộc trẻ phải theo
quy tắc, nguyên tắc học tập, không được chơi và mang đồ chơi vào lớp, Trẻ
không thích ứng được quy tắc học tập được thể hiện bằng điểm số dẫn đến
trẻ sợ không đến trường, ngược lại nếu cho trẻ học trước dẫn đến trẻ chán
nản, không tập chung, quậy phá, coi thường bạn bè dẫn đến vất vã cho giáo
viên lớp 1
Sự khác nhau về tri thức giữa mẫu giáo và lớp 1 [ Mầm non thì chuẩn
bị tri thức cho trẻ làm biểu tượng. ví dụ : Mẫu giáo định nghĩa trời mưa đơn
giản để trẻ dễ hiểu [ Mưa do hơi nước bốc lên tạo thành mây ] Khi lên
tiểu học thì trẻ được thấu hiểu sâu hơn về định nghĩa trời mưa.
Sự thay đổi chế độ sinh hoạt [ Mầm non trẻ được học  chơi- hoạt
động ngoài trời  hoạt động góc  ] Nhưng ở tiểu học trẻ chỉ học là chính,
chơi phải có giờ giấc quy định dẫn đến cần có sự chuẩn bị toàn diện [ Dạy
cho trẻ cách xưng hô, mối quan hệ thầy cô, bạn bè ].

Một số khó khăn khác nữa trong quan hệ với thầy cô giáo và bạn bè
mà nhiều học sinh lớp 1 thường mắc phải Khó khăn tâm lý là những trở ngại
[ Cản trở, ngăn cản] hoạt động học tập, tâm lý trẻ, điều đáng nói là những
khó khăn đó có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm trạng, thái độ và kết quả học
tập của các cháu, làm cho học sinh khó thích nghi với hoạt động học tập, kết
quả học tập không được tốt
Làm bài tập đầy đủ ở nhà trước khi đến lớp là khó khăn thứ 2 trong
những biểu hiện của trẻ khi thực hiện nề nếp học tập, Học sinh lớp 1 biết
rằng muốn đạt được điều đó ở nhà thì phải chăm học, làm hết bài tập được
cô giáo giao cho , về nhà phải học bài và làm bài đầy đủ, đi học phải mang


đầy đủ sách vỡ và dụng cụ học tậpTuy vậy giữa hiểu biết và việc làm của
các em có sự chênh lệch đáng kể, có một số trẻ khi đi học về nhà quên làm
bài tập ở nhà
Phải mang đầy đủ sách vỡ và dụng cụ học tập cũng là một khó khăn
của học sinh đầu lớp 1, một số cháu khi đi học đã quên mạn theo sách vỡ và
dụng cụ học tập, mỗi cháu được cô giáo cho một thời khóa biểu và được cô
giáo nhắc nhở thường xuyên nhưng các cháu vẫn quên vì một số lý do : Bố
mẹ không soan sách vỡ giúp con, con mất đồ dùng học tập bố mẹ chưa kịp
mua, tự trẻ soạn sách vỡ nên bỏ sót đồ dùng học tập
Khó khăn trong mối quan hệ
Tại môi trường phổ thông xuất hiện các mối quan hệ mới, tính chất
giữa các mối quan hệ cũng khác so với trường mầm non.
Quan hệ với giáo viên : Ở trường mầm non, mối quan hệ giữa cô giáo
và trẻ là mối quan hệ gần gũi  Cô giáo là mẹ hiền và các cháu là con. Trẻ
bộc lộ tình cảm với cô một cách tự nhiên như  Nhõng nhẽo,  Âu yếm.Cô
khuyến khích động viên trẻ tình cảm, bằng sự trìu mến, nhẹ nhàng. Nhưng
khi đến tiểu học, mọi chú ý đều hướng đến cô giáo dù trẻ chán nản, có thích
cô hay không thì vẫn phải đối diện với cô bằng sự lễ phép và vâng lời. Quan

hệ với cô giáo mang tính chất công việc dù cô có niềm nở, gần gũi thì trẻ
cũng khá rụt rè trước cô. Bởi vì, giáo viên tiểu học là người dạy dỗ, mang
tính  Uy quyền, nghiêm khắc, có những quy tắc nhất định của hành vi
Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá hành vi của trẻ, do vậy trẻ sẽ có
cảm giác rụt rè, sợ hãi cô giáo là điều không tránh khỏi.
Quan hệ với các bạn mới : Quan hệ bạn bè không phải là quan hệ của
trò chơi tập thể, hòa hợp, vui vẽ mà là những hoạt động mang tính cá nhân
cao hơn. Tính chất ganh đua mạnh mẽ [ Điểm số, đánh giá thứ bậc]. Lúc
này giáo viên là cầu nối. Nếu giáo viên đảm bảo công bằng sẽ có các mối
quan hệ êm đẹp và ngược lại giữa các trẻ dễ dàng nãy sinh sự ganh tị, mất
đoàn kết. Một số trẻ không hòa nhập được do tính rụt rè sẽ trở nên cô lập.
Bên cạnh đó, hiện tượng  Ăn hiếp chia phe bạn bè cũng có thể nảy sinh do
sự khác biệt về tính tự tin, khả năng làm chủ và khẳng định bản thân ở mỗi
trẻ.
Quan hệ với học sinh lớp trên : Trẻ luôn sợ hãy, luôn cảm tưởng bị
bắt nạt khi giao tiếp. Trẻ cảm thấy mình bé bỏng hơn các anh chị nên có thái
độ tránh né anh chị lớp trên. Điều này vừa thôi thúc trẻ nổ lực để trở thành
đàn anh đàn chị nhưng vừa cảm thấy không an toàn khi giao tiếp với đàn
anh, đàn chị.
Quan hệ của trẻ với gia đình : Trẻ có vị thế xã hội mới, cảm thấy
khác đi trong mối quan hệ gia đình. Phải có góc học tập riêng, có thời gian


làm bài, trẻ cảm thấy lớn hẳn lên, có trách nhiệm mới, có những đòi hỏi mới,
gia đình cần đáp ứng nếu không trẻ sẽ trở nên ích kỉ, lấy chuyện học để quấy
nhiễu, vòi ĩnh người lớn. Trẻ thực hiện nghĩa vụ học tập của mình dưới sự
nhắc nhở của người lớn, trẻ thường xuyên được kiểm tra bài vở và có thể
bị trách mắng nhiều hơn do tính học tập chủ động chưa được hình thành.
Thông thường, khi bước vào lớp 1, trẻ khó có thể quen ngay với việc
phải xa bố mẹ để hòa nhập vào môi trường mới, với nhiều áp lực, vì trước

đó trẻ đã được bao bọc nhiều hơn ở nhà cũng như ở trường mầm non. Trẻ có
thể sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng khi chuyển từ hoạt động chơi là chủ
đạo sang hoạt động học. Các em bị áp lực từ việc phải ngồi yên mỗi tiết 35
phút, áp lực điểm số, bên cạnh đó là hàng loạt những quy tắc, quy định mà
trước đây các em chưa biết. Do đó, trẻ có thể phát sinh những lo sợ như sợ
bị tổn thương cơ thể, sợ phạm lỗi, sợ bị phạt, sợ phải xa mẹ... Nếu không
được giúp đỡ, khủng hoảng của trẻ sẽ lặn vào trong và tạo thành những
ức chế tâm lí. Đến khi trẻ coi môi trường mới trở thành mối đe dọa, trẻ sẽ
truyền cảm xúc giận dữ, những phản ứng tiêu cực như khóc lóc, la hét, ăn vạ
về phía bố mẹ. Khi đó, bố mẹ nghĩ rằng trẻ không ngoan, không nghe lời
như trước nên dễ gây ra những rạn nứt trong mối quan hệ bố mẹ - con cái.
Về mặt tâm lí lứa tuổi, những biểu hiện đó là hoàn toàn bình thường. Tuy
nhiên, nếu điều đó xảy ra liên tục trong thời gian dài thì đó có thể là nguy cơ
tiềm ẩn của những rối loạn tâm lí tuổi nhỏ hoặc chính là sự mong muốn thỏa
mãn cái tôi, đòi hỏi cha mẹ chiều chuộng, đáp ứng. Nếu không được thỏa
mãn và đáp ứng đúng cách, có khả năng những phản ứng tiêu cực sẽ gia
tăng.
Hiện nay, ở các thành phố lớn, có nhiều gia đình cho con đi học trước
chương trình để con được chọn vào lớp và trường tốt Điều này chưa phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, khiến trẻ khó thích nghi hoặc trở nên lo
sợ vì không đáp ứng được mong muốn của cha mẹ. Từ đó dẫn đến, khi đi
học lớp 1, trẻ lại càng bị áp lực nặng nề hơn, và luôn nghĩ đến nỗi lo sợ đi
học trước đó của mình.
Đáng chú ý là, trước khi xuất hiện tâm lí lo âu ở trẻ, sự lo âu lại
thường xuất hiện ở cha mẹ trước. Người mẹ sợ con đi học sẽ bị ốm, nếu ở
bán trú thì ăn uống không hợp, lo con phải vào môi trường mới... Những
biểu hiện lo lắng đó thường được bộc lộ ra trong gia đình. Trẻ tiếp thu và
nhập tâm cảm giác đó rất nhanh và điều này đã cản trở trẻ trong quá trình
hòa nhập.
Những trẻ có tâm lí lo âu quá mức sẽ có biểu hiện không tập trung, sợ

sự hiện diện của người lạ [như cô giáo, bạn bè], dẫn đến tình trạng trẻ không
chịu đi học kéo dài, chỉ muốn ở nhà với người thân, khó hòa nhập với môi
trường mới. Có những trẻ trở nên rụt rè, từ chối tham gia chơi nhóm, các


hoạt động tập thể. Nhiều trẻ còn bị ảnh hưởng đến giấc ngủ, sợ bóng tối, sợ
ma, khó ngủ, thường gặp ác mộng. Nếu tâm lí lo âu kéo dài và trở nên trầm
trọng hơn sẽ dẫn đến các triệu chứng cơ thể như run tay chân, buồn nôn, đau
đầu, đau bụng, chóng mặt, hoảng loạn. Tình trạng đó nếu không được cải
thiện sớm sẽ dẫn tới hậu quả là trẻ thiếu tự tin, nhút nhát, ngại giao tiếp với
người xung quanh và dễ bị cô lập vì không có bạn chơi cùng.
Để phòng ngừa và hạn chế tâm lí lo âu của trẻ khi vào lớp 1, gia đình
và nhà trường cần cùng trẻ xây dựng thói quen kĩ năng tự thực hiện một số
công việc phù hợp với độ tuổi của mình, khuyến khích, động viên trẻ tham
gia các hoạt động tập thể, khen ngợi những điểm tích cực, chia sẻ với trẻ
trong các tình huống hàng ngày để trẻ tự tin, hòa nhập với môi trường mới.
Nói chung trong quan hệ này, trẻ nảy sinh nhiều trạng thái tâm lý
khác nhau. Nếu trẻ thoải mái, tự tin, thích ứng tốt thì sẽ thuận lợi cho mọi
việc họa tập, Ngược lại trẻ sẽ khép mình và làm giảm các khả năng liên kết,
nhận thức trong học tập và đây là những khó khăn tồn tại khá lâu dài nếu
không có biện pháp tác động hiệu quả.
Khó khăn trong việc thay đổi cách học :
Vào lớp 1, nảy sinh mâu thuẩn trong mối quan hệ giữa trình độ phát
triển của trẻ và nhu cầu của nhiệm vụ học tập mới. Trẻ phải lĩnh hội các tri
thức khoa học vừa trừu tượng, vừa khái quát, trong khi tư duy của trẻ lại
chưa vượt qua được trình độ tư duy trực quan cụ thể, nhận thức còn hết sực
cảm tính, rất khó khăn khi đi sâu tìm hiểu khám phá cấu trúc logic, bản thân
của đối tượng lĩnh hội. Trẻ phải giải quyết nhiệm vụ nhờ vào tư duy trừu
tượng, lĩnh hội tri thức một cách băt buộc với sự tham gia của tính chủ định
của các qua trình tâm lí. Nhưng ở bước ngoặt 6 tuổi, tư duy trừu tượng chỉ

mới bắt đầu phát triển, tính chủ định của các quá trình tâm lí mới được hình
thành bước đầu. Vì vậy, việc lĩnh hội của trẻ sẽ gặp không ít khó khăn nếu
không có sự chuẩn bị trước
Xuất phát từ khó khăn trên, người lớn cần tập cho trẻ làm việc trí óc,
biết chuyển các hành động bên ngoài thành hành động bên trong tư duy và
kết quả học tập phụ thuộc rất nhiều vào kết quả này. Các yêu cầu về tư thế
ngồi học, cách cầm bút, thực hiện các hiệu lệnh học tập, cách làm bài kiểm
tralà những khó khăn không nhỏ với trẻ
Phần lớn các em quen với lối sống tự do, thiếu những kĩ năng giao
tiếp xã hội, chưa quen thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập.
Khả năng tập trung, chấp hành những qui định chung và theo sự chỉ
dẫn của người lớn còn nhiều hạn chế.


Các em hầu như chưa được xây dựng thói quen học tập tự giác, đặc
biệt là biết cách tự học
Ở mỗi trẻ sẽ xuất hiện những khó khăn khác nhau do sự khác biệt và
phát triển tâm lí. Thấy khó khăn để tìm ra biện pháp giúp đỡ trẻ và chuẩn bị
tâm lí cho trẻ trước những khó khăn đó là nổ lực của cả gia đình và của cả
những người quan tâm đến công tác giáo dục ở nhà trường mầm non.
Khó khăn về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là vỏ của tư duy, là phương tiện giao tiếp và chiếm lĩnh tri
thức do đó học sinh sẽ rất khó khăn để học tập nếu không được sẵn sàng về
mặt ngôn ngữ. Việc ít hoặc không nói được tiếng Việt càng khắc sâu tâm lí
lo sợ, rụt rè, nhút nhát trong giao tiếp của các em. Qua đây cho thấy, điểm
then chốt trong việc chuẩn bị tâm thế cho các em vào lớp một là việc sử
dụng ngôn ngữ viết, đọc và nói rõ ràng , tròn câu. Như vậy, để nâng cao chất
lượng Giáo dục phổ thông ngay từ đầu phải chú trọng đến phát triển kĩ năng
nghe nói, đọc cho học sinh mầm non. Mặc dù Nhà nước đã có những chương
trình và chính sách hỗ trợ tiếng Việt cho học sinh mầm non nhưng trên thực

tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Trẻ hiểu được lời nói của người khác, biết sử dụng lời nói để giao tiếp
và có hiểu biết ban đầu với việc viết. Tuy nhiên, phụ huynh cũng đừng vội
bắt em hoặc gây áp lực cho con với con số và chữ. Nếu con chưa muốn học
mà vội bắt ép thì trẻ sẽ căng thẳng, mất hứng thú và có tâm lý sợ học. Để trẻ
hào hứng với việc học, bước đầu tiên có thể tạo điều kiện cho trẻ làm quen
với chữ, số thông qua hình thức trò chơi.
Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 2, đầy mới mẻ và lạ lẫm.
Vốn từ ít, khả năng nghe nói hạn chế. Chuẩn bị vào lớp 1 mà nhiều
em vẫn chưa biết hoặc chưa thuộc chữ cái.
Gặp rào cản ngôn ngữ trong học tập và tiếp thu lời giảng của giáo
viên.
Đôi khi sự quan tâm quá mức của người lớn đã biến thành những áp
lực học tập đối với các em, tác động xấu đến hiệu quả giáo dục chung. Nhiều
em trước khi vào lớp một đã đọc thông viết thạo; việc học của các em trở
thành cuộc chạy đua của các bậc phụ huynh.
Về mặt thể chất
Hồ Chí Minh đã từng nói  Một tinh thần minh mẫn trong một thân
thể khỏe mạnh". Một thể chất khỏe mạnh là tiền đề để các em có thể tiếp
thu, hoạt động tốt. Nhưng trên thực tế, ở các tỉnh, huyện miền núi, tỉ lệ học
sinh suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao, thậm chí rất cao.


Ngoài việc phát triển chiều cao, trọng lượng cơ thể, học sinh còn nên
được rèn luyện sự bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của
thần kinh, cơ bắp; độ khéo léo của bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác
quan để thích nghi với trường tiểu học. Nhưng đáng tiếc, những điều này
học sinh chưa học qua mẫu giáo hầu hết không được chú ý trang bị, rèn
luyện.
Tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao, một số trẻ khi lên lớp 1 các

cháu nhỏ hơn so với độ tuổi, các cháu ngồi chưa tới bàn học, việc viết bài
của các cháu rất khó khăn, Rất nhiều cháu
Khác với thời gian biểu ở khối mầm non chủ yếu là ăn ngủ và chơi,
lên đến tiểu học, các học sinh cần có đầy đủ năng lượng cho trí não duy trì
sự tập trung tiếp nhận được kiến thức. Vì vậy khi đến trường áp lực về thể
chất rất lớn, phụ huynh cần làm sao để trẻ không mệt và cảm thấy sảng
khoái. Do đó, việc xen kẽ các hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể chất
ở nhà và trường học rất quan trọng. Phụ huynh có thể hướng dẫn trẻ những
việc nhỏ để giúp đỡ bố mẹ, đồng thời rèn luyện cơ thể.
Khó khăn về mặt kĩ năng:
Để có được kết quả học tập tốt nhất khi vào học lớp 1, học sinh cần
được chuẩn bị những kĩ năng giao tiếp xã hội, kĩ năng hoạt động, học tập....
Đối với trẻ 5 tuổi, hoạt động vui chơi đang giữ vai trò chủ đạo; nhưng khi
vào lớp 1, trẻ phải làm nhiệm vụ của một học sinh - hoạt động chủ yếu là
học tập, lại mang tính chất bắt buộc, có tổ chức chặt chẽ, mục đích, kế
hoạch. Trong khi đó, trẻ em học ở mẫu giáo phần lớn đã quen với lối sống tự
do, không bị bó buộc vào một khuôn khổ nào, thiếu những kĩ năng giao tiếp
xã hội. Các em chưa quen thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập. Khả năng
tập trung, chấp hành những qui định chung và theo sự chỉ dẫn của người lớn
còn nhiều hạn chế. Các em hầu như chưa được xây dựng thói quen học tập
tự giác, đặc biệt là biết cách tự học. Thực tế này đặt ra vấn đề cần hình thành
những kĩ năng thiết yếu cho học sinh mần non miền núi để các em bắt nhịp
tốt với trường tiểu học.
Khó khăn về mặt tâm lý xã hội :
Lúc này trẻ nhận thức được về bản thân như tên mình và bố mẹ, anh
chị em, số điện thoại/địa chỉ gia đình; cảm thấy thân thiện hoặc xa lạ với
những người mới. Chuẩn bị tâm lý giúp trẻ tin tưởng vào khả năng của mình
để khi rời bố mẹ mà không bị căng thẳng... Cũng như trẻ biết cảm nhận và
thể hiện cảm xúc, có mối quan hệ tích cực với bạn bè, người lớn.
Vì vậy việc chuẩn bị để giảm bớt những khó khăn cho trẻ trong thời

gian đầu lớp 1 không phải chỉ là việc chon trường, lớp hay cho trẻ làm quen
với đọc và viết, mà các bậc phụ huynh phải chú ý chuẩn bị tâm lý cho con


của mình. Đặc biết việc giáo dục nề nếp, phương pháp học tập cho con rất
quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến kết quả học tập trước mắt và lâu dài. Hơn
thế khi đã thành nếp, thành thói quen thì rất khó thay đổi.
Ngày nay, các bậc phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của con,
nhất là con em mình ở những mốc quan trọng, những giai đoạn chuyển tiếp.
Tuy nhiên, chúng ta nên tìm hiểu để thể hiện sự quan tâm đúng và có hiệu
quả mới có ích cho con em của chúng ta.

Những điều cha mẹ nên làm để giúp đỡ con :

Tập cho trẻ có thói quen tự lập biết tự làm vệ sinh cá nhân, tự phục vụ
bản thân ở những việc đơn giản, hướng dẫn cho trẻ một vài sinh hoạt cá
nhân: Đi vệ sinh, lau chùi, kéo quần có khóa Tốt nhất, nên tập cho con đi
ngủ đúng giờ, điều chỉnh dần giờ giấc sao cho khi đi học bé có thể dễ dàng
dậy đúng giờ vào buổi sáng mà không lè nhè.
Ở nhà, dành cho trẻ một góc học tập tre trẻ có ý thức sắp xếp sách
truyện cho gọn gàng. Cha mẹ có thể mua truyện với nội dung giáo dục gần
gũi với trường tiểu học để đọc cho con mỗi tối.
Để trẻ có được sự háo hức và hào hứng với trường học mới cha mẹ
hãy cho con em mình làm quen với nếp sinh hoạt của trường tiểu học và cần
trang bị cho trẻ những kỹ năng tự lập cũng như chuẩn bị tâm lý để trẻ tự tin
và nhanh chóng hòa nhập với việc học tập ở trường tiểu học. Trước hết,
chúng ta cần tạo cho con một tâm lí tốt bằng những lời tâm sự gần gũi:
Chà, con trai [con gái] của mẹ đã lớn rồi, sắp trở thành học sinh lớp Một rồi
đấy!. Con à, là học sinh lớp Một đấy nhé, chứ không phải là bé của trường
Mầm non nữa đâu!. Bé của bạn chắc sẽ vui và tự thấy mình đã lớn.

Hãy dành thời gian làm bạn với con, trò chuyện với con về ngôi
trường mà cả gia đình và bé đã dự định. Tránh những câu chuyện đã được
nghe kể chưa hay về cô giáo, lớp học trước mặt trẻ để trẻ nghe thấy. Tai hại
lắm đấy, trẻ có vẻ như không nghe nhưng lại rất hay hóng chuyện của
người lớn đấy.
Bố mẹ nên đưa con đi sắm đồ dùng học tập, cặp sách, vở, bút
nhưng đừng quên hãy để con lựa chọn. Tuy nhiên, bố mẹ chú ý giúp con
chọn những chiếc cặp nhẹ nhàng, dễ mở, tiện sử dụng, hợp với tuổi nhỏ của
bé. Cả nhà cùng bé chuẩn bị góc học tập sáng sủa, gọn gàng, đẹp mắt. Mỗi
buổi tối, cha mẹ cần dành thời gian hướng dẫn trẻ cách sắp xếp sách vở, đồ
dùng học tập cho buổi học ngày mai, hướng dẫn trẻ cách học ở nhà để từng
bước xây dựng thói quen học tập tự giác, đặc biệt là biết cách tự học.


Không ép trẻ phải học trước song để trẻ tự tin khi bước vào môi
trường học tập mới, nhiều phụ huynh đã trang bị cho con những kiến thức và
kỹ năng phù hợp với lứa tuổi. Điều này rất quan trọng để trẻ hào hứng và
mạnh dạn khi bước vào trường tiểu học. Phụ huynh có thể mỗi ngày dành
khoảng 30 phút để dạy cho con những kiến thức cơ bản. Ngoài những cuốn
tập tô giúp tay trẻ cử động một cách mềm mại, uyển chuyển; phụ huynh còn
có thể tìm những cuốn sách dành cho giáo viên lớp 1 để biết những hướng
dẫn chính xác về từng nét chữ, cách ghép vần... Khi đã sử dụng bút viết
nhuần nhuyễn thì cho trẻ sử dụng vở tập viết lớp 1, nhưng chú ý là vở dạng 4
ô li để quen với các nét chữ trong chương trình tiểu học.
Khi trẻ vào học, phụ huynh nên quan tâm đến tâm trạng của trẻ, hỏi
han tâm sự với trẻ về bạn bè, trường lớp. Thực tế cho thấy, nhiều phụ huynh
đón trẻ ở trường về không hỏi han cô giáo con như thế nào, hôm nay con
làm quen với bạn nào... mà chỉ chăm chăm muốn biết "bài Toán, bài tập đọc
ở trường con được mấy điểm". Áp lực thành tích như vậy là quá sức với trẻ
nhỏ Bởi, những trẻ được củng cố sự tự tin sẽ học tốt hơn. Theo tiến sĩ

Bưởi, cha mẹ cần lưu ý một số việc sau để chuẩn bị tâm lý cho con trước khi
vào lớp một:
Trước hết, cha mẹ cần phải làm cho bé cảm thấy thích thú khi được đi
học. Cha mẹ nên kể cho bé nghe những điều hay về trường lớp và thầy cô.
Hãy kể cho con nghe một ngày đến trường của trẻ sẽ diễn ra như thế nào
bằng những câu chuyện vui mà bạn có thể nghĩ ra.
Bạn có thể đưa con đi thăm trường, lớp trước khi con chuẩn bị đi học.
Giới thiệu lớp học của bé, có những lối đi nào để bào lớp, bàn ghế được sắp
xếp như thế nào.
Nói cho con biết trước những thay đổi có thể xảy ra khi trẻ chuyển từ
mẫu giáo lên tiểu học. Chẳng hạn bé phải dậy sớm để đi học đúng giờ, phải
làm bài tập về nhà, tự xúc lấy ăn mà cô giáo không giúp, khi đi vệ sinh cần
xin phép cô như thế nào...
Khi bé lần đầu tiên đi học, bạn nên cho trẻ làm quen với trường lớp và
cô giáo một cách từ từ. Bạn hãy ở bên con một vài tiếng đầu trong lớp vào.
Trong những tuần đầu đi học, bạn nên cho trẻ đi học buổi sáng và đến trưa
đón con về.
Ngoài ra, cha mẹ cũng cần lưu ý đến đón con đúng giờ. Vì khi đã hết giờ
học bé thấy các bạn được bố mẹ đón về trước sẽ thấy lo lắng. Nếu điều kiện
không cho phép bạn nên giải thích để bé hiểu.


Tạo không khí vui vẻ trong gia đình và mong chờ đến ngày đầu tiên đi
học bằng cách tất cả các thành viên trong gia đình đều hết sức quan tâm đến
ngày khai trường của bé.
*********************&***********************




Chủ Đề