Ở rô mà những người lao động khỏe mạnh nhất được sử dụng để làm gì

Available in English

Tháng trước, chúng tôi đã hỏi ý kiến bạn đọc về việc liệu lực lượng lao động Việt Nam đã sẵn sàng cho tương lai hay chưa, chuyển “từ lúa gạo đến rô bốt” chưa. Việc phát triển một lực lượng  lao động có tay nghề cao đáp ứng cho một nền kinh tế công nghiệp hóa vào năm 2020 đã được khẳng định là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam, khi mà đất nước đã gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Không có gì ngạc nhiên khi vấn đề cải cách giáo dục được đề cập đến nhiều trong các cuộc họp gần đây của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tuy nhiên, giáo dục cũng là vấn đề đang được bàn luận sôi nổi trong dân chúng và đã được đề cập đến trong một thảo luận luận trực tuyến về phát triển nguồn nhân lực do Ngân hàng Thế giới và báo VietNamNet tổ chức cũng như được các độc giả trên blog của chúng tôi thảo luận.

Bạn đọc của VietNamNet Nguyễn Văn Hưng đã đặt câu hỏi về vấn đề mà rất nhiều độc giả khác đang quan tâm. Đó là các tiêu chí cho một lực lượng có tay nghề cao là gì. Nói cách khác, lực lượng lao động Việt Nam cần chuẩn bị những kỹ năng nghề nghiệp nào cho hiện tại và cho thập kỷ sắp tới? Để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi này, theo tôi cần bắt đầu bằng việc lắng nghe xem những người sử dụng lao động nói gì.

Ngân hàng Thế giới cùng với Viện Nghiên cứu Quản lý Trung ương [CIEM], một trong đơn vị nghiên cứu hàng đầu tại Việt Nam, gần đây đã tiến hành một cuộc khảo sát với sự tham gia của 350 công ty thuộc lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận. Khảo sát tập trung tìm hiểu ý kiến của người sử dụng lao động về các kỹ năng nghề nghiệp hiện nay lực lượng lao động của họ đang có và những kỹ năng mà họ đang tìm kiếm.

Tư duy phản biện, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm

Các kết quả tìm thấy có thể không như những gì bạn nghĩ. Thứ nhất, những người sử dụng lao động nói rằng họ không cảm thấy hài lòng với chất lượng về giáo dục và tay nghề của lực lượng lao động hiện có, đặc biệt là của các kỹ sư và các kỹ thuật viên. Điều này đặc biệt thể hiện rõ ở các doanh nghiệp sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang một nền kinh tế công nghiệp hóa tiên tiến: đó là các công ty sáng tạo và xuất khẩu.

Thứ hai, những người sử dụng lao động cho biết họ không chỉ tìm kiếm các kỹ năng kỹ thuật, chẳng hạn như khả năng thực hành của một thợ điện. Người sử dụng lao động cũng tìm các kỹ năng mà giới chuyên môn gọi là “nhận thức” và “xã hội”, hoặc “hành vi”. Ví dụ, bên cạnh các kỹ năng kỹ thuật cụ thể cho công việc, tư duy phê phán là kỹ năng cần có nhất đối với giới công chức, văn phòng và quản lý, tiếp theo đó là các kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng lãnh đạo và kỹ năng giao tiếp. Các kỹ năng làm việc theo nhóm và giải quyết vấn đề là các kỹ năng quan trọng đối với giới công nhân. Những kết quả khảo sát này phù hợp với ý kiến của rất nhiều độc giả, như độc giả Barbara Shaw Miller đã bình luận trong bài blog trước rằng cần thiết phải thúc đẩy tư duy phản biện.

Điều này có ý nghĩa gì đối với cải cách giáo dục?

Các kết quả điều tra giúp chúng ta hiểu được ba vấn đề quan trọng. Thứ nhất, chiến lược phát triển kỹ năng nghề nghiệp của Việt Nam cần không chỉ nhìn vào lĩnh vực đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề và giáo dục đại học. Các kỹ năng tư duy phê phán hoặc làm việc theo nhóm thường được học từ sớm hơn nhiều - ở các bậc mẫu giáo, tiểu học và trung học cơ sở. Đúng là các trường kỹ thuật, dạy nghề và các trường đại học cần trang bị cho các kỹ thuật viên và kỹ sư tương lai các kỹ năng lý thuyết và thực hành cần thiết cho công việc của họ - và các trường cao đẳng và đại học ở Việt Nam vẫn có thể làm tốt hơn nữa điều này. Nhưng chỉ thế thôi chưa đủ. Những gì mà lớp trẻ học được, hoặc chưa học được ở bậc giáo dục phổ thông cũng quan trọng đối với những người sử dụng lao động.

Thứ hai, những người sử dụng lao động  đangđưa ra một thông điệp dành cho các giáo viên và các cán bộ quản lý ở bậc tiểu học và trung học cơ sở: Các kỹ năng tư duy phản biện, giải quyết vấn đề và giao tiếp không phải là các kỹ năng có thể thu nhận được bằng cách học  thuộc lòng - giáo viên giảng bài, học sinh chép bài – một thực tế ở rất nhiều trường học của Việt Nam. Nếu hệ thống giáo dục của Việt Nam muốn đem đến những kỹ năng nghề nghiệp mà những người sử dụng lao động  mong muốn, phương pháp giảng dạy sẽ cần phải thay đổi.

Thứ ba, quan điểm của những người sử dụng lao động Việt Nam rất giống với quan điểm của những người sử dụng lao động ở các nước có nền kinh tế thu nhập cao hoặc trung bình cao. Nếu chúng ta hỏi những người sử dụng lao động tại Anh và Đức, họ sẽ nói rằng các kỹ năng tư duy phê phán và giao tiếp là các kỹ năng thường được đòi hỏi nhưng lại hay thiếu ở người lao động. Điều này có nghĩa là, bằng cách định hướng lại hệ thống giáo dục để tập trung nhiều hơn vào giảng dạy các loại kỹ năng này, Việt Nam sẽ được chuẩn bị được cho bị những kỹ năng nghề nghiệp không bao giờ bị lỗi thời.

Bạn đọc của VietNamNet M Đồng hỏi rằng Việt Nam cần áp dụng chiến lược nào cho phát triển kỹ năng nghề nghiệp  để chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hóa? Câu hỏi này thừa nhận một thực tế là ở Việt Nam hiện nay vẫn có một phần lớn lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngoài ra, nguồn lao động dồi dào và tương đối rẻ của Việt Nam vẫn còn là một lợi thế so sánh trong sản xuất.

Đại dịch do vi rút corona gây ra [COVID-19] đã chạm đến tất cả các khía cạnh của xã hội bao gồm cả cách chúng ta làm việc. Nhân viên ứng phó khẩn cấp, nhân viên y tếvà những người khác cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho cộng đồng đã phải làm quá nhiều việc cùng một lúc, làm việc nhiều giờ hơn bình thường, làm việc nhiều ca hoặc thậm chí qua đêm và có ít thời gian ngủ và nạp lại năng lượng.

Trong hoàn cảnh thông thường, người trưởng thành cần ngủ 7-9 giờ mỗi đêm, cùng với cơ hội nghỉ ngơi trong khi thức, sức khỏe tối ưu và sức khỏe tinh thần. Thời gian làm việc dài và làm việc theo ca, kết hợp với công việc căng thẳng hoặc đòi hỏi về thể chất, có thể dẫn đến giấc ngủ kém và mệt mỏi cực độ. Mệt mỏi làm tăng nguy cơ chấn thương và suy giảm sức khỏe [nhiễm trùng, bệnh tật và rối loạn sức khỏe tâm thần].

Mặc dù không có một giải pháp nào phù hợp với nhu cầu của tất cả mọi người, đây là một số chiến lược chung mà người lao động và nhà sử dụng lao động có thể sử dụng để quản lý sự mệt mỏi tại nơi làm việc và làm việc an toàn.

Video liên quan

Chủ Đề