Phải nhìn vào đâu để đánh giá một học sinh

Tham dự nhiều buổi tập huấn cho cán bộ quản lý và giáo viên cốt cán về chương trình giáo dục phổ thông mới, không ít ý kiến quan tâm tới việc kiểm tra đánh giá có đồng bộ và được tiến hành ra sao khi thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới.

Trồng lúa, ươm cây… để lấy điểm

Nhiều giáo viên [GV] và phụ huynh có con mới chuyển cấp từ tiểu học lên lớp 6 THCS đều có chung một lo lắng là học sinh [HS] bị “sốc” vì nhà trường thay đổi hoàn toàn cách đánh giá. Trong khi ở cấp tiểu học, HS chỉ được chấm điểm mỗi học kỳ 1 lần với 2 môn toán, tiếng Việt thì rất dễ hiểu khi lên cấp THCS, HS sẽ không kịp xoay xở khi mà số môn học lên tới 11, trong đó có 9 môn đánh giá bằng cho điểm, trừ môn thể dục, nhạc, họa đánh giá bằng nhận xét. Hơn nữa, phần lớn HS chỉ học 1 buổi/ngày với số môn quá nhiều mà GV nào cũng muốn chứng tỏ môn học của mình quan trọng nên gây áp lực với HS bằng hình thức chấm điểm, giao nhiều bài tập về nhà…

Theo ghi nhận của Thanh Niên, không ít nhà trường đã đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá để giảm áp lực cho cả thầy và trò. Không chỉ kiểm tra đánh giá kiểu truyền thống là làm bài trên giấy để lấy điểm kiểm tra 15 phút hoặc 1 tiết mà thay vào đó là các hình thức để đánh giá khác như bài thuyết trình, thái độ học tập của HS, hồ sơ học tập, vở hoặc sản phẩm học tập, báo cáo kết quả thực hiện một dự án, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, báo cáo kết quả thực hành, thí nghiệm, tiết học trải nghiệm…

Ví dụ, tại Trường THPT Phan Huy Chú [Hà Nội], trong tuần trải nghiệm cuối tháng 10 vừa qua, cô Trương Thị Lan Hương, GV dạy môn sinh học, đã giao cho HS lớp 11 trồng một khóm rau mầm và yêu cầu sản phẩm nộp có tuổi cây ít nhất là 6 ngày. Từ mỗi sản phẩm cá nhân, HS làm theo nhóm và báo cáo bằng thuyết trình hoặc clip không quá 3 phút với nội dung về lợi ích và tiến trình trồng cây bằng chính hình ảnh thực tế rau mầm mà các HS trồng… Điểm của sản phẩm được tính là điểm kiểm tra 1 tiết.

Một số trường học ở những tỉnh như Lâm Đồng đã nỗ lực thay đổi cách thức kiểm tra, đánh giá HS. Trường THCS Quang Trung [H.Bảo Lâm, Lâm Đồng] vài năm nay đã thay đổi mạnh mẽ cách thức đánh giá HS. GV được hướng dẫn kiểm tra cho điểm sau mỗi lần hoạt động nhóm trong từng tiết học. GV tổ chức cho các nhóm tự tương tác, tranh luận, chấm điểm rồi chốt điểm chung từng nhóm, sau đó nhóm trưởng cho điểm từng thành viên tùy theo sự đóng góp của cá nhân, đối với sản phẩm của nhóm.

Ông Văn Đức Phương, Hiệu trưởng Trường THCS Quang Trung, cho hay việc HS cho điểm lẫn nhau ban đầu chưa quen, cũng có ý kiến thắc mắc nhưng GV phải là trọng tài, nếu quyết định của nhóm trưởng là đúng thì GV sẽ cùng giải thích để các thành viên khác tâm phục khẩu phục, ngược lại thì GV sẽ góp ý để điều chỉnh…

Thực tế triển khai cho thấy HS đánh giá lẫn nhau còn sát sao hơn khi làm việc theo nhóm hoặc sản phẩm được làm tại nhà… Tất nhiên, trường phải có quy định khung, như điểm từng thành viên trong quá trình hoạt động tạo ra sản phẩm nhóm không thấp hơn điểm chung của nhóm 3 điểm… Thầy Phương cho rằng đánh giá theo cách thức này, điều dễ nhận thấy nhất là HS hào hứng, thể hiện bản thân, rèn luyện kỹ năng mềm và thể hiện sự ganh đua lành mạnh giữa các nhóm. Đổi lại, GV sẽ vất vả hơn vì không phải cứ ra một đề bài rồi cả lớp làm giống hệt nhau như cách truyền thống. Để đánh giá năng lực HS thì đề bài ra cũng phải gắn với thực tiễn, ví dụ môn sinh học sẽ yêu cầu HS phải chăm sóc một loại cây nào đó trong khoảng thời gian nhất định, hằng ngày theo dõi sự phát triển của cây đó và đưa ra nhận định… Thậm chí cho HS trồng một vạt lúa ngay tại vườn trường để biết mỗi hạt cơm các em ăn hằng ngày được trồng và chăm sóc ra sao.

Tại Trường THCS Lạc Lâm [H.Đức Trọng, Lâm Đồng], thầy Hiệu trưởng Trần Ngọc Minh cũng cho biết 2 năm học gần đây nhà trường đã không còn thực hiện các bài kiểm tra miệng, 15 phút hay 1 tiết thuần túy như trước kia mà đánh giá qua việc HS vận dụng kiến thức đã học trong sách vở để biến thành sản phẩm có ý tưởng, có sáng tạo của bản thân. Tuy nhiên, những bài kiểm tra định kỳ như giữa kỳ hay cuối kỳ... thì vẫn kiểm tra theo cách tập trung.

Ông Phương khẳng định đổi mới cách kiểm tra đánh giá sẽ tác động trực tiếp đến cách dạy học. Nhờ việc chấm điểm bằng nhiều hình thức như vậy mà HS và phụ huynh không lo “tốn thời gian” vào việc làm các đề tài nghiên cứu hoặc dạy học theo STEM. Ngoài ra, phần kiến thức đời sống và ứng dụng thực tiễn làm các em hứng thú học tập, kích thích đam mê nghiên cứu. “Đây là đổi mới tất yếu, nhất là sắp tới áp dụng chương trình mới theo định hướng phát triển năng lực HS. Đổi mới mà vẫn kiểm tra theo kiểu cũ, bắt HS học thuộc lòng thì không tạo động lực để thầy trò dạy học theo dự án, làm nghiên cứu khoa học”, thầy Phương nói.

Tin liên quan

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TRONG NHÀ TRƯỜNG

 
 


Trong năm học 2020-2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số  26/2020/TT-BGDĐT, ngày 26 tháng 8 năm 2020 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông. Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục phải kết hợp cả đánh giá học sinh bằng nhận xét và cho điểm. Mặc dù đánh giá là nhiệm vụ quen thuộc với giáo viên cấp tiểu học nhưng đây là nội dung còn mới với giáo viên cấp trung học. Bài viết này, mong góp bàn, chia sẻ một số ý tưởng mang tính cá nhân về đánh giá bằng nhận xét với học sinh trung học với hi vọng góp phần nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá trong các nhà trường.

Trước tiên cần hiểu bản chất của khái niệm đánh giá. Đánh giá là xác định giá trị cho một đối tượng nào đó; là rút ra những đặc điểm, xác định vị trí, mức độ của đối tượng trong tương quan với đối tượng khác ở cùng một hệ thống. Đánh giá còn là thao tác tư duy dựa trên những căn cứ đáng tin cậy và những tiêu chí khoa học để xác định đặc điểm, giá trị của đối tượng; từ đó, đưa ra quyết định hoặc quan điểm nhận thức phù hợp nhất. Hiểu khái niệm đánh giá, có thể dễ dàng suy ra bản chất, ý nghĩa của hoạt động đánh giá với đối tượng học sinh. Quy định đánh giá học sinh tiểu học [Ban hành kèm theo Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo] giải thích khái niệm đánh giá: là quá trình thu thập, xử lý thông tin thông qua các hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn, động viên học sinh; diễn giải thông tin định tính hoặc định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số phẩm chất, năng lực của học sinh tiểu học. Đây không chỉ là khái niệm đánh giá dành riêng cho học sinh tiểu học mà có thể hiểu rộng hơn là đánh giá năng lực, phẩm chất người học nói chung.

Căn cứ vào mức độ rõ ràng, có thể chia thành đánh giá định tính và đánh giá định lượng. Đánh giá định tính là cách rút ra những nhận định thông qua những ấn tượng nổi bật. Cách đánh giá này chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, tuy dễ thực hiện nhưng có độ tin cậy không cao do thiếu tính duy lí. Đánh giá định lượng là cách đánh giá dựa trên những căn cứ, những chỉ số, tiêu chí có thể mô tả được, đo đếm được. Cách đánh giá này thường mất nhiều thời gian, qua nhiều bước nhưng có độ tin cậy cao và đây là biểu hiện đặc trưng của tư duy đánh giá. Căn cứ vào quá trình, người ta chia thành đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì. Đánh giá thường xuyên là cách đánh giá dựa trên những dữ liệu, thông tin, kết quả,… hàng ngày của đối tượng. Chẳng hạn, khi học sinh giải quyết xong một nhiệm vụ học tập, giáo viên có thể đưa ra ngay lời nhận xét, khích lệ về kết quả thực hiện nhiệm vụ, cách thức tiến hành giải quyết vấn đề, khả năng tìm kiếm thông tin hỗ trợ,…  Đánh giá định kì là cách đánh giá dựa trên những dữ liệu, thông tin, kết quả theo kì hạn của đối tượng. Chẳng hạn, giáo viên đưa ra những nhận xét đánh giá học sinh về những năng lực, phẩm chất nào đó [theo yêu cầu của môn học hoặc hoạt động giáo dục] vào giữa hoặc kết thúc một học kì.

Đánh giá có nhiều mục đích nhưng với nhà trường, đánh giá là để có được cái nhìn khách quan, tổng thể, toàn diện về thành tích học tập, rèn luyện, những thiên hướng phát triển của học sinh; điều chỉnh các hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và đưa ra các giải pháp hướng đến sự tiến bộ của học sinh nói riêng. Như vậy, lợi ích của đánh giá không chỉ thuộc về người học mà còn dành cho cả người dạy, thậm chí cả nhà hoạch định chiến lược giáo dục. Đánh giá còn là quá trình suy đoán, dự đoán thiên hướng phát triển, tố chất của học sinh để tư vấn định hướng học tập, hướng nghiệp. Đánh giá vì vậy là khâu gắn liền với phương pháp dạy học vì xét đến cùng, một trong những khía cạnh của nghệ thuật dạy học chính là biết đánh giá sự tích cực của học sinh. Chẳng hạn, trong một giờ học, chỉ cần giáo viên đưa ra một lời nhận xét “Học sinh A hôm nay đã chứng tỏ được khả lập luận rất logic, thông minh” thì học sinh A sẽ thấy được quan tâm, cảm thấy có động lực hơn trong học tập. Ngược lại, một người thiếu nghệ thuật dạy học, chỉ cần đưa ra một lời đánh giá vô cảm: “Con càng học càng trở nên tồi tệ, không có khả năng nhận thức” thì đủ sức thui chột mọi ham muốn học tập của học sinh. Việc đánh giá đúng thời điểm, đúng đối tượng sẽ tạo nên sự khích lệ kì diệu với người học. Việc đánh giá phải được thực hiện song song cả bằng ngôn ngữ nói và viết.

Đánh giá bằng ngôn ngữ nói chủ yếu được tiến hành ở từng giờ dạy, sau mỗi hoạt động của học sinh và có thể kết hợp với cho điểm. Trong đánh giá, ngôn ngữ khen, chê, nhận xét là chủ đạo. Cách lựa chọn câu từ trong đánh giá phải dựa trên nguyên tắc đánh giá vì sự tiến bộ của người học. Để vì sự tiến bộ của người học, cần lựa chọn ngôn ngữ sao cho người học cảm thấy được quan tâm, được khích lệ, được trân trọng. Ngay cả việc chỉ ra những mặt hạn chế cũng nên gieo vào trong tâm hồn học sinh nỗ lực. Ví dụ, “học sinh A hôm nay đã làm chưa tốt nhiệm vụ được giao, trong khi thầy/cô biết là con có khả năng làm tốt hơn nhiều, chỉ là con chưa tập trung hoặc còn gặp một vài vướng mắc nhỏ”. Khi chỉ ra mặt hạn chế, tuyệt đối không được dùng các từ ngữ có có tính miệt thị, những từ ngữ chỉ gây tác động tiêu cực. Muốn vậy, giáo viên phải chú ý đến khả năng, năng lực tiếp thu môn học của từng học sinh. Tránh so sánh học sinh này với học sinh khác khiến học sinh bị phê bình tổn thương. Có thể, với người lớn, việc nêu một nhận xét mang tính phê phán là ý tốt, để các con cố gắng hơn. Nhưng hãy tưởng tượng ở tâm lí, lứa tuổi học sinh trung học, nếu mỗi ngày, học sinh chỉ cần nghe một lần một lời phê phán. Cộng lại cả năm học, chắc chắn học sinh đó sẽ hoặc là không muốn hợp tác, không muốn cố gắng. Tồi tệ hơn nữa, không tự tin vào chính mình. Sau gần hai chục năm gắn bó với nghề, tôi nhận thấy những học sinh bị bỏ rơi, lạc lõng giữa tập thể lớp chính là những học sinh hay bị chỉ trích. Để lấy phục hồi sự tự tin, tinh thần hợp tác những học sinh như thế này, phải mất rất nhiều thời gian và công sức. Kiểm chứng những học sinh lấy lại được sự tự tin và tinh thần hòa nhập, tôi nhận ra rằng, chỉ cần giữ nguyên tắc dù phê bình cũng không chỉ trích; tập trung phát hiện và tạo cơ hội cho học sinh được bộc lộ mình và từ đó nêu ra những nhận xét đánh giá, giúp học sinh lạc quan; mỗi lời đánh giá tích cực là một sự ghi nhận. Học sinh được ghi nhận cố gắng sẽ luôn thấy mình được quan tâm và mình có ý nghĩa quan trọng trong mắt người thầy.

Đánh giá bằng ngôn ngữ viết chủ yếu được sử dụng khi phê các bài kiểm tra, nhận xét sản phẩm học tập và ghi chép học bạ, Sổ gọi tên ghi điểm và Đánh giá học sinh. Với riêng việc đánh giá giữa kì và cuối kì, ghi chép học bạ, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau cho giáo viên:

Thứ nhất, phải xây dựng được các tiêu chí đánh giá, hoặc dựa trên tiêu chí đánh giá có sẵn về phẩm chất, năng lực. Xây dựng những tiêu chí đánh giá là việc cần thiết để tạo ra một chuẩn mực nào đó trong đánh giá. Chuẩn là một khái niệm chỉ tính khách quan, ít lệ thuộc vào chủ quan của người đánh giá. Chuẩn tuy không phải những quy định “nhất thành bất biến” nhưng phải có tính ổn định tương đối trong cả phạm vi và thời gian áp dụng, được đa số chấp nhận; phải tường minh, có thể mô tả, đo đếm được bằng các chỉ số đánh giá. Gắn liền với các chuẩn mực đánh giá, các tiêu chí đánh giá phải được xây dựng dựa trên mục đích đánh giá. Khi mục đích đánh giá thay đổi thì mọi tiêu chí sẽ thay đổi. Nếu mục đích đánh giá để lựa chọn hoặc xếp loại học sinh thì các tiêu chí đánh giá sẽ tập trung vào kết quả kiểm tra, thi cử; nếu đánh giá vì sự tiến bộ của người học thì ngoài kết quả kiểm tra, các tiêu chí sẽ tập trung vào quá trình học tập, hướng đến sự khích lệ người học. Để đánh giá theo đúng xu thế đổi mới, phải hiểu rõ các khái niệm phẩm chất và năng lực với những mức độ cụ thể.

Thứ hai, phải thu thập các thông tin về học sinh. Vì muốn đánh giá phải có thông tin, dữ liệu, tri thức về đối tượng [gọi chung là thông tin]. Phải thu thập được những thông tin, dữ liệu chính xác, cần thiết, giúp người thầy có cái nhìn toàn diện về học sinh. Đây là công việc rất khó khăn vì nếu không phải là giáo viên chủ nhiệm, việc nhớ hết tên học sinh đã khó chứ chưa nói gì đến nhận xét, đánh giá. Do đó, người thầy phải có sổ theo dõi, ghi chép về từng học sinh hoặc nhóm hoc sinh. Sổ theo dõi sẽ ghi lại một cách có chọn lọc những thông tin liên quan đến học sinh. Nguồn thông tin này có thể được chắt lọc từ nhiều kênh, nhiều công cụ như mức độ hoàn thành các đề kiểm tra, các bài tập, nhiệm vụ học tập; diễn biến điểm kiểm tra tăng hoặc giảm từ đầu đến cuối kì; việc tham gia các hoạt động của học sinh; việc thu lượm thông tin về học sinh từ cha mẹ, bạn bè,… Để có được thông tin toàn diện, chính xác về học sinh, ngoài việc căn cứ các bài kiểm tra, các nhiệm vụ học tập, giáo viên cần quan sát các hoạt động của học sinh. Vì thông quan hoạt động, học sinh bộc lộ năng lực và phẩm chất. Muốn quan sát hoạt động của học sinh cần phải tạo ra các hoạt động tìm kiếm tri thức trong các giờ học. Nghĩa là thay vì giảng giải, thuyết trình, người thầy nhất thiết phải tổ chức các hoạt động, tăng cường tương tác giữa thầy với trò, trò với trò tạo cơ hội cho học sinh được thể hiện mình.

Thứ ba, phải có cách ghi chép lưu trữ và xử lí thông tin, biến thông tin thành ngôn ngữ đánh giá. Mỗi người thầy sẽ tùy sở trường của mình có cách ghi chép lưu trữ riêng. Thông tin có thể được mã hóa thành các kí hiệu và cần được chọn lọc sao cho phản ánh trung thực nhất về học sinh. Khi số lượng học sinh quá đông, có thể phân các nhóm và ghi chép những thông tin về nhóm học sinh. Cách làm này có ưu điểm là tiết kiệm được thời gian, đánh giá được bao quát với số lượng đông nhưng nếu phân loại nhóm thiếu chính xác, kết quả đánh giá sẽ không phản ánh đúng về đối tượng. Các thông tin được ghi chép về học sinh là căn cứ quan trọng để đánh giá nhưng là phần quặng. Cần phân biệt sự khác nhau giữa thông tin về học sinh và ngôn ngữ đánh giá học sinh. Thông tin chỉ là những ghi chép mang tính biểu hiện còn đánh giá là những ghi chép phản ánh đúng bản chất của học sinh. Chẳng hạn, sổ theo dõi ghi chép học sinh A đã có rất nhiều lần giải được các bài toán khó và thích giải các bài toán khó. Từ đó giáo viên có thể khái quát thành lời nhận xét “ham mê và có năng khiếu học Toán”. Để biến thành ngôn ngữ đánh giá, người thầy phải tổng hợp chắt lọc bằng các từ, cụm từ nhận xét trực tiếp học sinh hoặc ghi chép học bạ, sổ điểm. Ngôn ngữ đánh giá cần công tâm; đánh giá đối tượng từ nhiều góc nhìn [gắn với những tiêu chí]; đánh giá cả nguyên nhân, quá trình, kết quả, chất lượng; đánh giá đúng thực trạng, bản chất, chiều hướng phát triển của học sinh. Chú ý đánh giá cả những mặt tích cực, ưu điểm và nhược điểm của học sinh. Tuy nhiên, hãy tập trung vào những góc nhìn, những giá trị có lợi nhất cho mục đích phát triển phẩm chất, năng lực; tập trung vào những những góc nhìn có thể bao quát được đối tượng một cách toàn diện, sâu sắc nhất. Ngôn ngữ đánh giá một mặt chỉ ra thực trạng năng lực, phẩm chất; cho biết học sinh đang ở mức độ nào về kiến thức, kĩ năng, phẩm chất; mặt khác, đưa ra những giải pháp, những lời tư vấn về cách thức, ý thức học tập, rèn luyện ở những giai đoạn tiếp theo...

Trước đây kết quả học tập, rèn luyện của học sinh chỉ tập trung vào điểm số. Đúng là điểm số phản ánh chính xác việc đáp ứng chuẩn kiến thức - kĩ năng trong chương trình học mỗi môn. Tuy nhiên điểm số cũng chỉ phản ánh được phạm vi kĩ năng, năng lực môn học. Ngoài ra, học sinh còn phải được khẳng định giá trị của mình ở nhiều lĩnh vực khác mà điểm số các môn học không phản ánh hết.  Chính vì vậy, đánh giá được nâng lên thành khoa học đối với nhà trường. Đây là cách thức nâng cao chất lượng học tập, lao động, hành động,... vì đánh giá bao giờ cũng gắn với việc đề ra giải pháp. Đó không chỉ là khoa học mà như trên đã nói, còn là một trong những khía cạnh thuộc về nghệ thuật dạy học. Một người thầy giỏi không thể không biết đưa ra những nhận xét kịp thời để khích lệ, tạo nguồn cảm hứng cho người học. Một người thầy giỏi cũng có thể là người ghi lại những nhận xét trong học bạ khiến học sinh tự hào về mình khi mang theo cuốn học bạ khi tốt nghiệp.

Bài viết này không chỉ được gợi ý từ chủ trương của ngành về đánh giá học sinh mà còn được nảy sinh từ những ấn tượng rất sâu của tôi khi tiếp xúc với những học sinh cũ. Ấn tượng của đa số học sinh cũ [đặc biệt là những học sinh giỏi, học sinh có cá tính mạnh] về thời đi học, về giáo viên là những lời nhận xét bài làm, nhận xét về phẩm chất, về cách học. Và không ít những lời nhận xét đánh giá của giáo viên đã trở thành động lực, thành đam mê suốt đời của học sinh. Đánh giá là nhiệm vụ không thể thiếu để lưu giữ, phản ánh quá trình, kết quả học tập của học sinh; là căn cứ quan trọng để tuyển sinh, tuyển dụng hoặc phân công công việc đúng đối tượng. Nội dung đánh giá, vì thế sẽ có sức ảnh hưởng, chi phối không nhỏ đến hướng đi trong cuộc đời của mỗi học sinh. Nhấn mạnh ý nghĩa như vậy để mỗi giáo viên khi đặt bút cho điểm hoặc ghi nhận xét trong học bạ phải hết sức cẩn trọng, phải có trách nhiệm và dám chịu trách nhiệm, dám “bảo hành” về nội dung nhận xét, đánh giá của mình nhưng trên hết, phải có trái tim nhân từ, bao dung, độ lượng.

Hà Thị Thanh Tâm – Hiệu trưởng Trường THCS Trần Nguyên Hãn, TP. Bắc Giang

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề