Quan niệm về độc lập, tự chủ trong đường lối đối ngoại của đảng ta là như thế nào?

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập của Việt Nam

Đọc bài Lưu

QPTĐ-Trong 5 năm qua, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh chóng với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và chưa có tiền lệ. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn tận dụng được thời cơ, hóa giải được thách thức, tiếp tục tạo những kết quả toàn diện, với nhiều dấu ấn nổi bật trên nhiều lĩnh vực. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Trong tổng thể các thành tựu của đất nước có sự đóng góp không nhỏ của đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Triển lãm thành tựu đối ngoại qua các thời kỳ. [Ảnh: Internet]

Dấu ấn trong công tác đối ngoại

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 14/12/2021, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc nhằm quán triệt sâu sắc, toàn diện đường lối, chủ trương, quan điểm về đối ngoại của Đảng, nhất là những nội dung mới, thể hiện sự phát triển về tư duy đối ngoại của Đảng ta trong quá trình phát triển mới của đất nước, tạo nhận thức thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự đồng lòng của người Việt Nam ở nước ngoài và tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Từ đó, cụ thể hóa và tổ chức bằng các chiến lược, kế hoạch, chương trình, đề án đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Việt Nam là đất nước độc lập, tự cường, luôn có khát vọng và tầm nhìn phát triển, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở. Vì vậy, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào công việc chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, "dĩ bất biến ứng vạn biến"; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện, tích lũy, nâng tầm được cả thế và lực nhất định, uy tín ngày càng gia tăng trên trường quốc tế, đã tạo ra những tiền đề quan trọng và vị thế thuận lợi để phát triển.

Trong đó, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Chiến lược đối ngoại của Việt Nam đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn kết hài hòa, chặt chẽ, có hiệu quả với đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự phát triển của đất nước vào dòng chảy của thời đại, từ đó xây dựng, triển khai các đường lối, chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá và dự báo đúng tình hình trong nước và quốc tế, tinh thần không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc và xu thế thời đại.

Thành công trong công tác đối ngoại còn là kinh nghiệm trong việc nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước, từ phá thế bao vây cấm vận, tiến tới chủ động thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định nguyên tắc nền tảng và tư tưởng chỉ đạo của đối ngoại thời kỳ đổi mới là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Cùng với đó, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Kết hợp chặt chẽ giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh để tạo thế chân kiềng vững chắc, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước; giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc ngoại giao Việt Nam kết hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khoa học, lý luận ngoại giao Việt Nam; đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, du lịch, qua đó đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở, nêu lên một số nội dung lớn liên quan đến công tác đối ngoại. Theo đó, cần tiếp tục thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc diễn biến tình hình để kịp thời đổi mới tư duy và có giải pháp thích hợp trong công tác đối ngoại; cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước, song phương cũng như đa phương. Sử dụng hình ảnh cây tre Việt Nam, mềm mại, nhưng rất kiên cường như tính cách của con người, dân tộc Việt Nam linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh quan điểm về “Quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại và ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc và trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam”.

Song Hà

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế

Ngày phát hành: 12/12/2019 Lượt xem 20962

Độc lập, tự chủ ở đây là độc lập, tự chủ của đất nước, của quốc gia, là năng lực của quốc gia giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các lực lượng bên ngoài. Một đất nước độc lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết định việc lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị của mình, là đất nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Độc lập, tự chủ là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của các nước trên thế giới; là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng là mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày nay.

Hội nhập quốc tế là sự tham gia của các quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, để quốc gia trở thành một bộ phận cấu thành, có vị trí, vai trò nhất định trong các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị trường, các tập đoàn kinh tế lớn, các hoạt động kinh tế đã vượt khỏi biên giới các quốc gia; các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư kinh doanh của nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã diễn ra trên quy mô toàn cầu, hình thành nên thị trường toàn cầu, các chuỗi sản xuất toàn cầu, phân công lao động và hợp tác kinh tế trên quy mô toàn cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ của lịch sử. Xu hướng khách quan, tiến bộ đó của thế giới, của thời đại đã thu hút sự tham gia của ngày càng nhiều quốc gia. Hội nhập quốc tế trở thành nhu cầu, phương thức phát triển của các quốc gia. Hội nhập đem lại cho các quốc gia những nguồn lực, cơ hội để phát triển: đó là thị trường, thành tựu khoa học công nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị hiện đại cho phát triển kinh tế; các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phong phú để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; để đất nước tiến cùng thời đại. Hội nhập quốc tế, tăng cường sự liên kết, tạo sự đan xen lợi ích, củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị, lòng tin giữa các quốc gia là nhân tố rất quan trọng để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh, duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển chung... Hội nhập quốc tế để phát triển, muốn phát triển cần phải hội nhập quốc tế. Đây cũng là một xu hướng khách quan, tiến bộ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đối với các quốc gia không chỉ có cơ hội, thuận lợi mà còn có không ít khó khăn thách thức; trong đó, thách thức lớn nhất là phải bảo vệ, giữ vững được độc lập, tự chủ của đất nước. Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế, do đó, là một trong những mối quan hệ đặc biệt quan trọng cần được quán triệt và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta.

Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan hệ biện chứng, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước thống nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng đều là vì lợi ích của đất nước, của quốc gia, dân tộc, đều vì lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là vì lợi ích của đất nước, để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Độc lập, tự chủ cũng vì lợi ích của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, từng nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta trong những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 “Dù có phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do”; đồng thời, Bác cũng từng nói nước được độc lập mà nhân dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của nhau. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể là cho việc xác định chiến lược hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của hội nhập quốc tế phải phục vụ mục tiêu phát triển, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, củng cố độc lập, tự chủ của đất nước. Nội dung, bước đi, cách thức hội nhập trên các lĩnh vực phải xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất nước, từ tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế trong từng giai đoạn... Đồng thời, trong thời đại ngày nay, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với cộng đồng quốc tế. Một quốc gia bảo vệ độc lập, tự chủ của mình bằng cô lập, tách biệt khỏi cộng đồng quốc tế nhất định sẽ đi đến trì trệ, kém phát triển, do đó, cuối cùng sẽ nhất định không thể bảo vệ được độc lập, tự chủ của mình.

Song, quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế không chỉ có thống nhất, hỗ trợ, gắn bó với nhau, mà còn có mặt mâu thuẫn, thậm chí xung đột nếu không được nhận thức và giải quyết đúng đắn. Trong thời đại toàn cầu hóa, nhưng vẫn còn có nhận thức lo ngại, do dự hội nhập quốc tế vì sợ mất độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước; có những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc lập, tự chủ của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì một cách khách quan, những lo ngại về mất độc lập, tự chủ của đất nước không phải là không có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Khi hội nhập quốc tế, đất nước phải chấp nhận và tuân thủ những “luật chơi” chung; khi tham gia, trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương với các nước, các khu vực trên thế giới, đất nước phải điều chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với các cam kết đã ký. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp và sản phẩm của đất nước, mà cũng phải mở cửa thị trường của đất nước cho doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài; các doanh nghiệp, các sản phẩm của đất nước đứng trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước. Những biến động, bất ổn trên thị trường thế giới, của kinh tế thế giới sẽ trực tiếp, nhanh chóng tác động, gây ra những bất lợi cho kinh tế đất nước. Những nguy cơ như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác động từ bên ngoài; đất nước trở thành “bãi thải” công nghệ, bị ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài... đều rất lớn. Những nguy cơ này sẽ trở thành hiện thực khi đất nước không có một chiến lược hội nhập quốc tế đúng đắn, hiệu quả phù hợp với điều kiện của mình. Đây là điều đã và đang xảy ra trên thế giới, ở nhiều nước với các mức độ khác nhau.

Ở nước ta, trong khi quan điểm về bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước luôn là quan điểm lớn, nhất quán, bất biến, được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta ở các giai đoạn, thì quan điểm về hội nhập quốc tế được hình thành, phát triển trong hơn 30 năm đổi mới, là một trong những nội dung lớn của đường lối đổi mới đất nước của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội VI của Đảng [1986], Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, còn xác định “nước ta phải tham gia vào phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là với các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”[1]; Đại hội VII của Đảng [1991] chủ trương “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[2]; Đại hội VIII của Đảng [1996], bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, đã đề ra chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”[3]. Đại hội IX của Đảng [2001], cùng với phát triển quan điểm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, đã phát triển quan điểm “hội nhập kinh tế” thành “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nhấn mạnh “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hội nhập, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN”[4]. Quan điểm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của Đại hội IX tiếp tục được Đại hội X [2006] phát triển thành “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”[5]. Đại hội XI của Đảng [2011] đã đưa nhận thức, quan điểm về hội nhập quốc tế lên một bước phát triển mới khi đưa vào Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011] quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, tức là không chỉ hội nhập kinh tế mà hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực và khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế”[6]. Cương lĩnh yêu cầu trong quá trình đổi mới đất nước phải nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn, trong đó có “quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế”. Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, nâng cao hiệu quả hội nhập trên các lĩnh vực.

Từ các quan điểm, chủ trương của Đảng phát triển qua các kỳ Đại hội, đến nay, có thể khẳng định: Độc lập, tự chủ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, tất yếu để phát triển đất nước trong thời đại toàn cầu hóa. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là để tận dụng, phát huy sức mạnh của thời đại vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước ta; nâng cao vị thế, uy tín, vai trò của đất nước tham gia vào giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới, đóng góp vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Phương châm hội nhập là chủ động, tích cực. Chủ động lựa chọn nội dung, bước đi, lĩnh vực, đối tác phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển, với khả năng của đất nước và bối cảnh quốc tế; việc thực hiện phải tích cực để đạt hiệu quả cao. Hội nhập quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực, nhưng hội nhập kinh tế là trọng tâm. Hội nhập phải trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, phải là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp. Bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước phải là một mục tiêu, nguyên tắc, một tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hội nhập quốc tế.

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, hội nhập quốc tế của đất nước ta đã được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 184 nước thuộc tất cả các châu lục, có quan hệ với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, đa phương, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam là thành viên Liên Hiệp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới [WTO], Ngân hàng thế giới [WB], Quỹ tiền tệ quốc tế [IMF], thành viên ASEAN, APEC, ASEM... Hội nhập quốc tế được mở rộng, phát triển tất cả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp mở rộng thị trường, thu hút được lượng lớn vốn đầu tư, thành tựu khoa học, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ của nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân. Hội nhập văn hóa, xã hội đã thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của đất nước, quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và làm phong phú đời sống văn hóa đất nước bằng những sản phẩm, giá trị văn hóa của các nước trên thế giới. Hội nhập về chính trị, quốc phòng, an ninh tạo điều kiện cho xây dựng và tăng cường lòng tin giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, góp phần vào duy trì môi trường hòa bình, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Hội nhập quốc tế, do đó, đã góp phần quan trọng vào tăng cường, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, yếu tố quyết định để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế vẫn còn những hạn chế. Nhận thức về mối quan hệ này chưa đầy đủ, chưa thành ý thức thường trực ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực; vẫn còn biểu hiện chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt, còn không thấy về lâu dài sẽ ảnh hưởng độc lập, tự chủ của đất nước. Chất lượng, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao, chưa tận dụng và khai thác có hiệu quả các tiềm năng, cơ hội do hội nhập đem lại để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tình trạng xuất khẩu một số sản phẩm tập trung quá nhiều vào một thị trường; nhất là tình trạng nhập siêu, thâm hụt thương mại lớn, kéo dài với một đối tác, không được khắc phục mà vẫn tiếp tục gia tăng. Tình trạng thiếu chủ động, kịp thời sử dụng các biện pháp phòng vệ không trái với cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước sự xâm nhập của các lực lượng kinh tế hùng mạnh từ các nước trên thế giới; để ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế đất nước do những biến động, cú sốc từ bên ngoài. Tình trạng không phải các doanh nghiệp trong nước là lực lượng nòng cốt, chủ lực mà doanh nghiệp FDI mới là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế của đất nước [đã chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, gần 70% giá trị sản xuất công nghiệp], trong khi doanh nghiệp FDI hầu như tách biệt với các doanh nghiệp trong nước, trở thành khu vực kinh tế biệt lập...

Trong những năm tới, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh và kinh tế thế giới, khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, cơ hội và thách thức đối với đất nước ta đều rất lớn. Hội nhập quốc tế phải tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả; độc lập tự chủ của đất nước phải tiếp tục được giữ vững, tăng cường. Trong bối cảnh đó, việc quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế cùng có ý nghĩa quan trọng. Để bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước trong bối cảnh tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi:

- Phải giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; nâng cao uy tín quốc tế; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phải bảo đảm an ninh, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thực sự là nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cần phải theo một chiến lược hội nhập tổng thể với nhiều hình thức đa dạng, lộ trình, bước đi phải phù hợp với chiến lược, mục tiêu, năng lực của đất nước trong từng giai đoạn. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, nhất là với các đối tác lớn, có vai trò và ý nghĩa chiến lược, tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị trường. Đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Có những giải pháp hiệu quả ngăn ngừa, làm thất bại những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường trong nước trước những biến động phức tạp, tác động tiêu cực từ thị trường và kinh tế thế giới, không trái với các cam kết quốc tế đã ký kết...

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịch HĐLLTW


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, Nxb. Sự thật, H, 1986, tr.81.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII, Nxb. Sự thật, H, 1991, tr.147.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.84.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.120.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.112.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.27-28.

Độc lập tự chủ và vai trò của công tác đối ngoại

Thứ Bảy, 03-07-2021, 06:17

Facebook Email Bản in +

Đồng chí Lê Hoài Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương [Ảnh: TTXVN]

Bài viết quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với tiêu đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đăng trên Báo Nhân Dân số ra ngày 16/5/2021 đã phân tích sâu sắc về con đường phát triển của đất nước ta, đặc biệt là nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ.

Ngày 12/6/2021, tại Hội nghị Toàn quốc tại Hà Nội sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị [Khoá XII][1] về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”,Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu về một số vấn đề cốt lõi của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, yêu cầu hiện nay đối với việc học tập và nêu gương của cán bộ, đảng viên.Các nội dung của các bài viết và bài phát biểu trên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổng kết, phát triển lý luận, quá trình triển khai, thực hiện đường lối của Đại hội XIII của Đảng và đã nhận được nhiều sự quan tâm, đánh giá cao ở trong nước và trên quốc tế.

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam",Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới vàthời đại, của thời cuộc và cục diện của nó”.

Tổng Bí thư khẳng định nội dung quan trọng hàng đầu của đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, đó là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hóacác quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi".Nội dung đó thể hiện đậm nét tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, trong đó có tầm nhìn quốc tế của Người, các tư tưởng về độc lập tự chủ và vai trò của công tác đối ngoại và bài viết dưới đây tập trung vào các bài viết, phát biểu, hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối, thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta khi Người sinh thời.

1.Tầm nhìn quốc tế có vị trí đặc biệt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các nhà nghiên cứu còn gọi đó là chủ nghĩa quốc tế. Năm 1911, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành mới tròn 21 tuổi đã quyết định đi ra quốc tế để tìm con đường đem lại tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc.Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” [xuất bản năm 1927] đặt nền móng tư tưởng cho quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đó mang tên Nguyễn Ái Quốc, đã dành nhiều phần để thông tin, phân tích về lịch sử cách mạng các nước, phong trào thế giới.

Đảng ta thường xuyên đánh giá tình hình quốc tế để xác định những thuận lợi và khó khăn, đặt cách mạng Việt Nam và sự nghiệp của dân tộc trong mối quan hệ tác động qua lại với cách mạng thế giới và những xu hướng quốc tế, từ đó đề ra đường lối phù hợp. Các văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lời kêu gọi do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng [tháng 2 năm 1930] đã phân tích về mối quan hệ giữa các tầng lớp, giai cấp trong nước với với lực lượng bên ngoài nhằm xác định lực lượng, đối tượng của cách mạng, tình hình quốc tế, trong đó dự đoán “Cuộc chiến tranh đế quốc thứ hai đang được ráo riết chuẩn bị”[2] để đề ra nhiệm vụ của cách mạng. Cuối tháng 12 năm 1941, chiến tranh giữa Nhật với Mỹ, Anh nổ ra ở khu vực Thái Bình Dương, lan đến Đông Dương, Đảng ta nhận định “Cơ hội giải phóng của chúng ta đã đến[3]”. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắnnhau và hành động của chúng ta” để tiến tới Tổng khởi nghĩa.Trong hai cuộc kháng chiến hết sức cam go, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xem xét vấn đề so sánh lực lượng giữa ta và đối phương trong cả bối cảnh của sự phát triển lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, phong tràogiải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa và đánh giá âm mưu, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam trong tổng thể chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Lòng yêu chuộng hòa bình và phấn đấu cho hòa bình là quan điểm nhân văn nổi bật trong tầm nhìn quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người và Đảng ta luôn dành sự quan tâm hàng đầu cho vấn đề quốc tế về chiến tranh và hòa bình, khẳng định rõ quan điểm chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, nỗ lực phấn đấu cho hòa bình đồng thời kiên quyết bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của dân tộc.Từ những năm 1930, Đảng ta cảnh báo về nguy cơ của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2 [1939-1945], đưa ra nhiều chỉ đạo trong Đảng, kêu gọi quần chúng ngăn ngừa cuộc chiến tranh đó và ủng hộ Liên Xô, các nước trong phe đồng minh chống phe phát xít gây chiến.Trong những năm 1945-1946, bảo vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ trước sự chống phá của các lực lượng ở trong và ngoài nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kiên trì, tìm nhiều biện phápđể tránh chiến tranh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới…” Những tài liệu nay đã được công bố cho thấy rõ là sau khi Hiệp định Genèvevề đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương và kiên trì thực hiện Hiệp định, nhất là về việc hai miền tổ chức tổng tuyển cử và hòa bình thống nhất nước nhà.Bước vào cuộc kháng chiến của những năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiếp tục yêu cầu phía Mỹ và chế độ miền nam thực hiện Hiệp định Genène, vận động hình thành mặt trận nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược, đem lại hòa bình ở Việt Nam, vừa đấu tranh chống xâm lược ở Việt Nam, vừa bảo vệ hòa bình thế giới, từng bước tạo cục diện “vừa đánh, vừa đàm” và tiến tới đàm phán với Mỹ, chế độ miền Nam và ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào năm 1973.

Trong quan hệ với thế giới, sau khi nước nhà giành lại được độc lập vào năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây: … Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực[4]”. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự đồng cảm đặc biệt đối với nhân dân các dân tộc bị áp bức, thuộc địa. Người chỉ ra khả năng các nước thuộc địa có thể giành thắng lợi và cần có sự liên kết giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các cương vị khác nhau và Đảng ta đã nhất quán ủng hộ mạnh mẽ và tin tưởng ở sức mạnh của phong trào giải phóng dân tộc.

Đối với hai dân tộc Lào và Campuchia cùng cảnh ngộ trên bán đảo Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc hết sức ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau nhưng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau là một nguyên tắc.Về chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới được thành lập, Chủ tịch Hồ ChíMinh đã khẳng định:“Đối với Lào và Miên,nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền [5]”.

Ngay từ quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ lập trường ủng hộ Chính quyền Xô viết ở Liên Xô và cách mạng Trung Quốc.Người cũng xác định độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hết lòng, hết sức ủng hộ các nước xã hội chủ nghĩa, đóng góp tích cực vào đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa và phát huy vai trò của các nước xã hội chủ nghĩa vào phong trào cách mạng, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới đối với các mục tiêu tiến bộ chung.

Tầm nhìn quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối quốc tế của Đảng ta là khởi nguồn của tình cảm, sự kính trọng đặc biệt của các dân tộc, đông đảo nhân dân, các tầng lớp xã hội ở các nước trên các châu lục đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự ủng hộ rộng rãi đối với công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.Đó cũng là những cơ sở lý luận và thực tiễn cho bài học kinh nghiệm mà ngày nay Đảng ta đã đúc kết là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.

2. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ý chí của dân tộc Việt Nam hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử và cũng là mục tiêu phấn đấu hàng đầu của Đảng.Không có gì quý hơn độc lập, tự do và độc lập, tự chủ có mối liên hệ khăng khít, thể hiện xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc và phuơng pháp.Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chương trình tóm tắt của Đảng [năm 1930] đề ra mục tiêu “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “Việt Nam tự do” và Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [năm 1930] nêu nhiệm vụ cốt yếu là “Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết”. Nhưng, trước hết phải “có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO[6]”.Độc lập, tự chủ trước hết là ở tư duy, đường lối, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ởtrong nước và ở địa phương”[7] và tránh “thấy người ta làm thế nào mình cũng một mựcbắt chước làm theo thếấy[8]”. Cùng với đó là việc chuẩn bị và xây dựng lực lượng để có thể thực hiện được đường lối độc lập tự chủ.

Độc lập, tự chủ về tư duy, đường lối là một trong những nhân tố quyết định nhất, bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, nhất là ở những thời điểm và giai đoạn bước ngoặt hoặc nhiều biến động, phức tạp.Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa vào năm 1920, đó là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản,đồng thời vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam thì chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong giai đoạn đầu là tiến hành cách mạng tư sản dân quyền. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong bối cảnh phức tạp của những bất hoà giữa các nước xã hội chủ nghĩa, có những thời điểm lãnh đạo một số nước xã hội chủ nghĩa có những quan điểm chưa phù hợp tình hình chung của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và diễn biến phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cao tinh thần độc lập tự chủ để đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu của cách mạng nước ta, phù hợp với tình hình quốc tế.Đảng ta đã nhận định thắng lợi của cuộc kháng chiến đó “trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo[9]”.

3.Từ tầm nhìn xa, trông rộng và sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh, những yêu cầu của đất nước, Người đã sớm nhận thức về tầm quan trọng của công tác đối ngoại và trực tiếp tham gia nhiều hoạt động đối ngoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng và là người thầy, nhà lãnh đạo vĩ đại của đối ngoại Việt Nam.Năm 1919 là thời điểm đặc biệt trong hoạt động đối ngoại của Người khi Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì lý do “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi”[10] và thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi tới Hội nghị Versailles[Pháp] bản Yêu sách của nhân dân An Nam.Một năm sau đó, tại Đại hội Tours [Pháp] của Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III [Quốc tế Cộng sản] vì “Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa . . . Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu[11]” cùng tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản, theo đó Người đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản.Những năm tháng sau đó, dưới danh nghĩa người dân Việt Nam yêu nước, người cộng sản, Người hoạt động tích cực kêu gọi sự ủng hộ đối với cách mạng Việt Nam, chuẩn bị các mặt cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, xây dựng quan hệ với các Nhà nước, đảng phái, tổ chức, nhân dân các nước, và đóng góp vào công việc chung của quốc tế.Đó cũng là những hoạt động đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đầu năm 1945, Bác Hồ phân tích “dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới là đánh bằng binh[12]”.Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người nêu rõ “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm[13]” và xác định: “Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng[14]”. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo, vận dụng tài tình để phát huy sức mạnh của ngoại giao. Khi cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn ác liệt mới với việc Mỹ đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam Việt Nam, Hội nghị Trung ương 12 [Khoá III] tháng 12 năm 1965 giao nhiệm vụ “ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tiến công địch[15]”. Tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận và ban hành riêng một nghị quyết tại Hội nghị Trung ương 13 [Khoá III]tháng 1 năm 1967 về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công, trong đó nêu “đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực vàchủ động. Chúng tatiến công địch về ngoại giao bây giờlà đúng lúc[16]”. Hội nghị Trung ương 16 [Khoá III] vào tháng 5 năm 1969 xác định “ngoại giao là một mặt trận quan trọng[17]”. Nội hàm của ngoại giao cũng là công tác đối ngoại gồm cả đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được nêutrong đường lối mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đề ra và trong quá trình thực hiện.Phát triển mới, quan trọng về đường lối của Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư, Ban Đối ngoại Trung ương đã có nhiều đóng góp quan trọng vào công tác của Đảng và đất nước. Ban Đối ngoại Trung ương hiện là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong lĩnh vực đối ngoại, tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo, hướng dẫn công tác đối ngoại nhân dân và quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại trong hệ thống đảng, đoàn thể, tổ chức nhân dân. Các nhiệm vụ của Ban Đối ngoại Trung ương là nghiên cứu tình hình các chính đảng và phong trào nhân dân thế giới, nghiên cứu, dự báo tình hình quốc tế, đề xuất kịp thời những đối sách của Đảng ta, chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các văn kiện đại hội, nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về lĩnh vực đối ngoại; chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu cụ thể hoá đường lối đối ngoại của Đảng; là một đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, dự báo về lĩnh vực đối ngoại trình Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; thẩm định hoặc tham gia thẩm định các đề án trong lĩnh vực đối ngoại trong hệ thống chính trị trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, các quy chế, quy định về công tác đối ngoại của Đảng; quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại trong hệ thống đảng, đoàn thể, tổ chức nhân dân và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại[18].

Cán bộ, đảng viên và người lao động của Ban Đối ngoại Trung ương nhận thức những nhiệm vụ được giao là vinh dự, đồng thời cũng là trách nhiệm lớn.Ban Đối ngoại Trung ương đã triển khai việc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" và bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Ban đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng, trong đó quán triệt yêu cầu của tình hình mới về việc nâng cao chất lượng công tác tham mưu chiến lược, thẩm định, hướng dẫn và kiểm tra đồng thời làm tốt các công việc thường xuyên khác. Những việc đó đòi hỏi Ban Đối ngoại Trung ương kế thừa những kết quả công tác đã đạt được, đồng thời đổi mới tư duy, tiếp tục nâng cao năng lực cán bộ, cải tiến phương pháp công tác, điều chỉnh tổ chức, bộ máy và phát huy tinh thần hăng say, chuyên nghiệp và trách nhiệm công tác.

Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng ta về đối ngoại qua các giai đoạn cách mạng là những tài sản quý báu mà việc tiếp tục nghiên cứu sâu, theo nhiều khía cạnh sẽ giúp phát triển, làm phong phú thêm tư tưởng của Người, những tư tưởng, quan điểm của Đảng ta, đồng thời giúp nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về những nhiệm vụ chuyên môn của công tác đối ngoại, từ theo dõi, đánh giá tình hình, để xuất về ứng phó, tham mưu chiến lược và tổ chức thực hiện để triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả đường lối đối ngoại của Đại hội XIII, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng, bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

--------------

[1] Nghị quyết 05-CT/TW ngày 15/5/2016.
[2] Văn kiện Lời kêu gọi.
[3]Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 7, trang 233 [1940-1945], Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000.
[4] Lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 522, 523, Nxb Chính trị Quốc gia.
[5] Lời kêu gọi Liên hợp quốc, đã dẫn ở trên.
[6] Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, trang 595, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011.
[7] Sửa đổi lối làm việc, năm 1947.
[8] Văn kiện đã dẫn ở trên.
[9] Báo cáo Chính trị của BCH TƯ khoá III tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, 1976.
[10] Hồ Chí Minh, Biên niên sử, Tập 1,trang 47,Nxb Chính trị Quôc gia Sự thật, Hà Nội năm 2016.
[11] Văn kiện đã dẫn ở trên, trang 86.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, trang 562, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011.
[13] Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao, ngày 14 tháng 1 năm 1964.
[14] Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm, ngày 16 tháng 3 năm 1966.
[15] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 12 [Khoá III] ngày 27 tháng 12 năm 1965 về tình hình và nhiệm vụ mới, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003.
[16] Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 28, trang 174,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003.
[17]Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 30, trang 104, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2004.
[18] Theo Quyết định số 112-QĐ/TW ngày 4 tháng 7 năm 2017 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Đối ngoại Trung ương.

LÊ HOÀI TRUNG - Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương

Tâm huyết với Bài viết của Tổng Bí thư

Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới [*]

[ĐCSVN] - "Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới" là tựa đề bài viết của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu tới bạn đọc nội dung bài viết này.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc, đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn cách mạng. Trên cơ sở kế thừa đường lối đối ngoại qua các kỳ đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Nhìn lại đường lối đối ngoại của Đảng trong 35 năm Đổi mới

Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI [năm 1986], đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia- dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đối ngoại thời kỳ đổi mới và được nhận thức ngày càng sâu sắc.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác"[1], Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc lợi ích quốc gia- dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX [năm 2003] lần đầu tiên nêu rõ các thành tố cơ bản của lợi ích quốc gia- dân tộc. Từ Đại hội XI [năm 2011], Đảng khẳng định lợi ích quốc gia- dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc thống nhất với nhau trong lợi ích quốc gia- dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm và thường xuyên là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này được nhận thức ngày càng sâu sắc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ Chính trị khóa VI [năm 1988] khởi đầu quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại, đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa để phát triển đất nước. Đến Đại hội XII [năm 2016], Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại gồm ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước.

Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm, phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác- đối tượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến"... Cơ chế thực hiện đối ngoại là phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước.

Với nhận thức Việt Nam là một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế [Đại hội IX] được triển khai mạnh mẽ, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình thành chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế [Đại hội XI]. Chủ trương này là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Nhận thức về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Đối ngoại song phương và đa phương từng bước điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện. Từ "tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa"[2] [Đại hội VI] đến hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Từ tham gia các diễn đàn quốc tế đến "nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược”[3].

Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã góp phần rất quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu [G7] và 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới [G20]… Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung và khép kín, đến nay Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có liên kết kinh tế sâu rộng, đã ký và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do [FTA], trong đó có các FTA thế hệ mới; kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương khoảng 200% GDP, thu hút khoảng 400 tỷ USD vốn FDI đăng ký, v.v…

Việt Nam là thành viên của hầu hết tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương quan trọng, đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc [2008-2009 và 2020-2021], Hội nghị cấp cao ASEAN [1998, 2010 và 2020], Hội nghị cấp cao ASEM [2004], Hội nghị thượng đỉnh APEC [2006, 2017], Diễn đàn Kinh tế giới về ASEAN [2018], Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ- Triều Tiên [2019], cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sỹ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, v.v…

Những thành tựu đối ngoại nói trên là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, là điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước như Nghị quyết Đại hội XIII đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, trong đó có đóng góp rất quan trọng của đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Sự kế thừa, phát triển và những điểm mới trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII.

Trên cơ sở đánh giá toàn diện thành tựu, bài học, thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi mới, bối cảnh quốc tế và trong nước, thời cơ chiến lược cũng như thách thức đặt ra đối với đất nước, Đại hội XIII tiếp tục kế thừa những nội dung xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, đồng thời phát triển và bổ sung nhiều nội dung mới để đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

1. Về đánh giá, dự báo tình hình thế giới, Đại hội XIII kế thừa những nhận định lớn của các kỳ đại hội Đảng trước đây, nhất là Đại hội XII, về các đặc điểm có tính quy luật và xu thế lâu dài của thế giới, song cập nhật, điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Đại hội XIII khẳng định hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, song nhấn mạnh các xu thế này đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn do “thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”; Châu Á- Thái Bình Dương có vai trò ngày càng quan trọng, nhưng chỉ rõ đây là khu vực “tiềm ẩn nhiều bất ổn”, v.v… Trong bối cảnh nhiều thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp, Đảng nhận định tác động của đại dịch Covid-19 sẽ còn kéo dài, “làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới”[4]. Thực tiễn tình hình quốc tế từ Đại hội XIII đến nay đã cho thấy những nhận định nói trên của Đảng là đúng đắn.

Một điểm mới là, trên cơ sở đánh giá Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Đại hội XIII đã đưa việc tranh thủ thành tựu của cuộc cách mạng này vào nội hàm quan điểm phát triển đất nước, trên cơ sở đó xác định rõ “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” là một định hướng lớn trong chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030.

Bên cạnh tiếp tục nhận định thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen nhau, Đại hội XIII nêu rõ tình hình thế giới "đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn" đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, dự báo đúng tình hình, chủ động trước mọi tình huống. Do đó, vai trò của đối ngoại càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước.

2. Về mục tiêu đối ngoại, Đại hội XIII khẳng định "bảo đảmcao nhấtlợi ích quốc gia - dân tộc", tức là đặt lợi ích quốc gia- dân tộc lên trước hết và trên hết; đồng thời, chỉ ra nguyên tắc chung là phải luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia- dân tộc tới mức cao nhất có thể. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia- dân tộc không có nghĩa nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ. Đại hội XIII nhấn mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia- dân tộc phải "trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Trong giai đoạn hiện nay, lợi ích quốc gia- dân tộc cao nhẩt là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, Đại hội XIII bổ sung bảo đảm an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xã hội trật tự, kỷ cương cũng là những lợi ích quan trọng của quốc gia- dân tộc. Các thành tố nói trên có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ và thống nhất với nhau, không thể coi nhẹ thành tố nào, đồng thời là căn cứ quan trọng nhất để xác định đối tác- đối tượng, hợp tác- đấu tranh trong đối ngoại, là "bất biến" để ứng phó với tình hình diễn biến nhanh, phức tạp.

3. Về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đối ngoại, điểm mới nổi bật trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII là lần đầu tiên Đảng xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huyđộngcác nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước". Các nhiệm vụ này quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn lấy ngoại giao hòa hiếu làm thượng sách giữ nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại đi đầu tạo thế "vừa đánh, vừa đàm", tranh thủ ủng hộ quốc tế, phá bao vây cấm vận, mở ra cục diện phát triển mới cho đất nước. Trong công cuộc đổi mới, đối ngoại “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước"[5]. Như vậy, việc khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII là bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng giữ nước mang tính chủ động cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.

Trước hết, vai trò tiên phong thể hiện ở việc đối ngoại đánh giá, dự báo tình hình, nhận diện thời cơ và thách thức để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, nhanh nhạy phát hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến lược, thúc đẩy đổi mới tư duy, tìm hướng đi thuận lợi cho phát triển đất nước. Vì vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”. Nhiệm vụ này rất quan trọng, bởi chỉ có "biết mình", "biết người", "biết thời thế" mới có thể tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong một thế giới vận động không ngừng, phức tạp và khó lường.

Hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó có đối ngoại. Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các phương thức, biện pháp hòa bình để ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.

Phát huy truyền thống giữ nước của ông cha ta là "hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động", Đại hội XIII khẳng định tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Việc thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp củng cố vững chắc cục diện đối ngoại ổn định, thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, đối ngoại cùng quốc phòng, an ninh giữ vững đường biên giới hòa bình, hợp tác và phát triển; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, tìm kiếm và phát huy điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác, linh hoạt và sáng tạo trong xử lý các tranh chấp trên cơ sở lợi ích quốc gia- dân tộc và luật pháp quốc tế; trong đó, tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982.

Ba là, tiên phong huyđộngcác nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Một trong những lợi ích cơ bản của nước ta hiện nay là phấn đấu thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Do đó, phát triển đất nước là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động đối ngoại, theo đó tất cả trụ cột, binh chủng đối ngoại đều nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước, trong đó ngoại giao kinh tế là nòng cốt. Như vậy, cùng với tư duy tiên phong, tư duy phát triển là điểm mới trong tư duy đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII.

Quán triệt “phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm”, đối ngoại tiếp tục tranh thủ hiệu quả các yếu tố quốc tế thuận lợi, các FTA đã ký và các cam kết, thỏa thuận quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thu hút tri thức, công nghệ và đầu tư phục vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần tăng cường năng lực tự chủ của nền kinh tế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đối ngoại cũng tranh thủ các mối quan hệ chính trị tốt đẹp để xử lý các vấn đề phức tạp trong hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vai trò tiên phong của đối ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua hoạt động “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan trọng vào phòng, chống, thích ứng an toàn với Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội.

Bốn là, tiên phong mở đường, đồng hành, phục vụ lợi ích của người dân, địa phương và doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế. Một điểm mới là Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2021-2030 đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân là gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, bám sát chủ trương, đường lối đối ngoại và phát triển kinh tế- xã hội, đối ngoại kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở đường, đồng hành, hỗ trợ người dân, địa phương và doanh nghiệp tranh thủ tối đa cơ hội, lợi ích và giảm thiểu rủi ro, vượt qua thách thức của hội nhập quốc tế; đồng thời, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

Năm là, tiên phong nâng cao vị thế và uy tín đất nước thông qua phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách quốc tế, đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào quan tâm chung của thế giới. Đại hội XIII xác định đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng MêCôngvà các khuôn khổ hợp tác cũng như trong những vấn đề quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, ngoại giao văn hóa, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài cũng góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín đất nước.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn “mọi việc thành công bởi chữ đồng”, đối ngoại chỉ có thể thực hiện tốt vai trò tiên phong khi được đặt trong tổng thể đối nội- đối ngoại, có được sự phối hợp chặt chẽ, đoàn kết và đồng thuận của các cấp, các ngành và toàn dân, trong đó điểm đồng ở đây là cùng nhau bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Có như vậy, mới phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

4. Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng là định hướng bao trùm của đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Thứ nhất, tính đồng bộ thể hiện ở sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các trụ cột đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các mối quan hệ với các đối tác, các lĩnh vực, nhất là đối ngoại quốc phòng, an ninh, giữa song phương và đa phương… Thứ hai, tính sáng tạo đòi hỏi đối ngoại không ngừng đổi mới, linh hoạt, khôn khéo xử lý các vấn đề phức tạp, tìm hướng đi, cách làm mới với “tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế”[6]. Đương nhiên, sáng tạo phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu chiến lược. Thứ ba, tính hiệu quả thể hiện ở việc đưa các quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực, huy động và kết hợp hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phục vụ tốt nhất phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao về tăng cường tính đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong hoạt động đối ngoại.

Về hội nhập quốc tế, Đại hội XIII đặt ra yêu cầu về tính “toàn diện” và “sâu rộng”. Đó là, hội nhập quốc tế qua tất cả các kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, song phương và đa phương, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Không chỉ rộng mở về không gian, hội nhập quốc tế tiếp tục đi vào chiều sâu, triển khai các cam kết quốc tế, trong đó thực hiện hiệu quả các cam kết sâu rộng của các FTA thế hệ mới, “chủ động tham gia, tích cực đóng góp,nâng caovai tròcủa Việt Nam trongxây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” vì lợi ích quốc gia- dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

5. Để đối ngoại phát huy vai trò tiên phong và hoàn thành tốt các định hướng, nhiệm vụ nói trên, Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”[7]. Chủ trương mới này phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đồng thời cũng là một yêu cầu mới vừa mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang tính cấp thiết đối với đối ngoại và ngành ngoại giao trong bối cảnh mới.

Tính toàn diện của nền ngoại giao Việt Nam thể hiện ở chủ thể thực hiện đối ngoại bao gồm cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân; trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế- xã hội; với tất cả đối tác, địa bàn, khu vực, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đaphương quan trọng có tầm chiến lược.

Tính hiện đại thể hiện ở tính chất nền ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống, bản sắc ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ và tinh hoa ngoại giao thời đại; ở vận hành nền ngoại giao trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; ở tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, sáng tạo và chủ động thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình.

Nền ngoại giao Việt Nam với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân luôn đặt dưới lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước. Dù có vị trí, chức năng, vai trò và lợi thế khác nhau, nhưng ba trụ cột đối ngoại có quan hệ rất chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau bởi cùng thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng với mục tiêu chung vì lợi ích quốc gia- dân tộc. Điều này phản ánh bản chất nền ngoại giao Việt Nam là sự tổng hòa, thống nhất giữa tính đảng, tính quốc gia- dân tộc và tính dân chủ- nhân dân. Việc triển khai đồng bộ, phối hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân sẽ phát huy thế mạnh của từng trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam. Đây vừa là truyền thống và bài học quý báu, vừa là nghệ thuật “tập hợp lực lượng” độc đáo của đối ngoại cách mạng Việt Nam cần tiếp tục gìn giữ và phát huy trong giai đoạn mới.

Để xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, bên cạnh tiếp tục củng cố, hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các trụ cột, cơ quan đối ngoại, một trong những điều cốt yếu là cần có đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ, hiện đại về phong cách và phương pháp làm việc, đổi mới, sáng tạo, ngang tầm với thời đại. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta có nhiều nhà ngoại giao xuất sắc, là những tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, tài trí và phong cách, nghệ thuật ngoại giao. Trước yêu cầu mới về xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, cần tiếp tục đặc biệt coi trọng công tác cán bộ đối ngoại, nhất là cơ chế, chính sách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại toàn diện về phẩm chất, trình độ và năng lực. Thế hệ cán bộ đối ngoại và ngoại giao hôm nay phát huy truyền thống vẻ vang, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, không ngừng phấn đấu, nâng tầm trí tuệ, vững vàng, tự tin, kiên định và đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, là kim chỉ nam cho triển khai đối ngoại đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong thời gian tới. Để các chủ trương, định hướng đối ngoại của Đại hội XIII đi vào cuộc sống, cần sớm có chiến lược tổng thể về đối ngoại gắn kết chặt chẽ với chiến lược bảo vệ Tổ quốc và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, trên cơ sở đó thống nhất nhận thức và hành động, xây dựng và triển khai các chiến lược, đề án, kế hoạch, biện pháp đối ngoại trong từng lĩnh vực, với từng đối tác. Có như vậy, sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân để đối ngoại đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước mà Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã đề ra./.


[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, 2011, Tập 5, tr. 290.

[2] ĐCS Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, Phần I, tr.97.

[3] Chỉ thị 25 của Ban Bí thư khóa XII.

[4] Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030.

[5] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28, năm 2013.

[6] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, tháng 8/2018.

[7] “Nền ngoại giao” ở đây được hiểu tương đương với đối ngoại, gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Vấn đề độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế

Ngày đăng: 16/09/2018 03:15

Mặc định Cỡ chữ

Giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là một trong những vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vấn đề đặt ra phải giữ vững độc lập, tự chủ, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. Do đó, cần phát huy những kết quả đạt được, đồng thời nắm bắt những thay đổi của thời cuộc để có những chính sách, biện pháp cụ thể để đạt được những thành công trong tình hình mới.

Hội nghị Ngoại vụ toàn quốc lần thứ 19 với chủ đề “Chủ động, sáng tạo, phục vụ hội nhập hiệu quả và phát triển bền vững” tháng 8/2018

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, vấn đề độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế vẫn còn có những quan điểm, ý kiến đang tiếp tục được trao đổi, thảo luận trong đó có quan điểm cho rằng: hội nhập quốc tế là đòi hỏi khách quan mà nước ta phải tham gia để phát triển. Nhưng hội nhập quốc tế là con dao hai lưỡi, càng tham gia một cách sâu rộng, chúng ta càng lệ thuộc vào bên ngoài mà chủ yếu là các nước tư bản phát triển. Bởi vậy, nguy cơ mất độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế đang trở nên hiện hữu và không sớm thì muộn dễ bị chệch hướng theo chủ nghĩa tư bản. Đó là cách nhìn nhận cần được tiếp tục bàn thảo, làm rõ hơn.

1. Về độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế

Độc lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đảng ta coi độc lập, tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc, nhất quán, có tầm quan trọng sống còn xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam.

Trong điều kiện của thế giới hiện nay, toàn cầu hóa đạt tới trình độ phát triển chưa từng có, kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan không thể bỏ qua hoặc cưỡng lại. Hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế luôn là sân chơi với nhiều cơ hội và không ít thách thức. Có người ví hội nhập quốc tế như dòng sông chảy ra biển lớn, dễ bị hòa tan; hoặc như bước vào vòng xoáy thời cuộc, bị mất phương hướng bất kể lúc nào. Lại có quan điểm cho rằng mở cửa, hội nhập chính là đón cả gió lành và gió độc cùng vào nhà. Hội nhập quốc tế trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, kinh tế, sự chi phối của các nước lớn và những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của thế giới, đòi hỏi phải giữ được độc lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những mối quan hệ quan trọng đặc biệt cần giải quyết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc chỉ rõ mối quan hệ này để đưa vào Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội của Đảng thể hiện sự sáng tạo và bước phát triển mới về tổng kết thực tiễn, nâng tầm lý luận của Đảng.

2. Thực trạng quá trình hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong công tác đối ngoại và thu được những thắng lợi ấn tượng. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường hòa bình thuận lợi cho sự phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững”[1].

Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về chính trị của nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành quả tốt đẹp. Đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất cả trong kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, Châu Á - Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế.

Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Thành công của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là đã hình thành các cụm sản xuất và phát triển các ngành sản xuất có trình độ công nghệ tiên tiến. Theo Tổng cục Thống kê, tính tới năm 2017 đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đăng ký hơn 310 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 170 tỷ USD với 24.000 dự án. Việt Nam đã được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất - kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Thành công của hội nhập kinh tế tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế phát triển, sức mạnh tổng hợp tăng lên sẽ là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa - xã hội của nước ta với cộng đồng thế giới đã được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và có chuyển biến về chất lượng. Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa - xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày một nhiều hơn. Theo Báo cáo của Chính phủ năm 2017, khách quốc tế đến Việt Nam đã vượt 13 triệu lượt người.

Từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hóa ngay tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hóa - xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao sáng lấp lánh trong bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng - an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh - quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh - quân sự toàn cầu.

3. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ của nước ta đang được tích cực thực hiện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, tính chất bất định, bất ổn gia tăng, tạo ra những khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như tác động bất lợi đến việc giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Các thách thức quốc tế ngày càng đa dạng hơn, lan tỏa hơn, các “cú sốc” bên ngoài có khả năng tác động mạnh hơn. Cùng với các thách thức an ninh phi truyền thống đã vượt quá giới hạn của một quốc gia, điều đáng lo ngại là gần đây, trên thế giới xuất hiện nhiều biến động phức tạp như xu hướng dân túy, bảo hộ, chống toàn cầu hóa và chống hội nhập quốc tế.

Ở trong nước, nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cũng đứng trước nhiều khó khăn phức tạp. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao, kinh tế với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nên sự đan xen lợi ích và tùy thuộc cũng như chuyển hóa lẫn nhau ngày càng gia tăng. Kinh tế Việt Nam có độ mở cao, đã tham gia nhiều hiệp định kinh tế, thương mại thế hệ mới với tiêu chuẩn cao trong khi sức vóc của nền kinh tế còn có hạn nên áp lực từ quan hệ kinh tế quốc tế làm gia tăng nguy cơ phụ thuộc vào bên ngoài, ảnh hưởng trực tiếp đến tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Mặt trái của quá trình hội nhập trong điều kiện phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc biệt là mạng xã hội đang tác động tiêu cực đến tư tưởng, lối sống của một bộ phận nhân dân, làm gia tăng các vấn đề an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao. Tình hình chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh các vùng miền diễn biến phức tạp. Đấu tranh phòng chống tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch lợi dụng quá trình cải cách thể chế, pháp luật và thực thi các cam kết quốc tế để tác động chuyển hóa, can thiệp vào các công việc nội bộ của ta.

Trước bối cảnh tình hình mới, để giữ vững độc lập, tự chủ trong khi thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”[2].

Các nghị quyết của Đảng đã xác định rõ những nguyên tắc, phương châm, mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng lớn cho quá trình hội nhập quốc tế. Để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, cần thực hiện tốt một số giải pháp quan trọng sau:

Thứ nhất, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối ngoại, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Thứ ba, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử lý quan hệ đối ngoại. Nước ta là một bộ phận không thể tách rời thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Xa rời sự vận động chung sẽ tự cô lập mình với thế giới bên ngoài và ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Lịch sử cho thấy “nhất biên đảo” hoặc chỉ quan hệ với một vài đối tác là nguồn gốc gây ra mất độc lập, tự chủ vì sẽ dễ bị bó hẹp trong sự lựa chọn, nếu không đủ bản lĩnh và nội lực sẽ dễ trở thành công cụ của quốc gia khác. Đa phương hóa, đa dạng hóa là cách để đan cài lợi ích với các đối tác, qua đó tăng cường vị thế đất nước, giữ vững độc lập, tự chủ quốc gia.

Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chấp nhận “luật chơi” chung, không thể hành động đơn phương mà không tính đến lợi ích của nước khác. Đường lối, chính sách đối ngoại và đối nội của mỗi quốc gia đều có ảnh hưởng với những mức độ nhất định của những yếu tố tác động từ bên ngoài hoặc từ nước khác. Trong quá trình hội nhập quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không tránh khỏi sự va chạm với các nước khác, khi đó sử dụng luật pháp quốc tế để xử lý, giải quyết sẽ có sự công bằng hơn và bảo vệ độc lập, tự chủ hữu hiệu hơn.

Thứ tư, chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Quá trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa và nhỏ, giữa các nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu cầu cấp thiết phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải các nguy cơ đó một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa.

Thứ năm, nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần đổi mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước lớn. Nghiên cứu nắm bắt tình hình ở các nước láng giềng, tình hình an ninh khu vực, tình hình biển Đông. Nghiên cứu, đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả.

Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Đảng chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cán bộ tham gia hoạt động hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Như vậy, vấn đề giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là một trong những vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Độc lập, tự chủ là nguyên tắc nhất quán, bất di, bất dịch. Quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng, quan niệm về độc lập, tự chủ và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Thực hiện quá trình hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực một cách chủ động, tích cực, sâu rộng và có hiệu quả là phương thức hữu hiệu để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, sức mạnh quốc tế trở thành sức mạnh quốc gia, sức mạnh thời đại thành sức mạnh dân tộc, qua đó giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền đất nước. Do đó, cần phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời nắm bắt những thay đổi của thời cuộc để có những chính sách, biện pháp cụ thể để đạt được những thành công trong tình hình mới./.

GS.TS. Vũ Văn Hiền -Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

-----------------------------------

Ghi chú:

[1], [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, tr.151, tr.154-155.

Về trang trước

Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề