Quy luật kinh tế và chính sách kinh tế đều phụ thuộc vào các điều kiện khách quan

Ảnh minh họa - Nguồn: dangcongsan.vn

Những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế phổ biến chi phối mọi nền sản xuất xã hội. Các quy luật của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ... biểu hiện qua sự biến động của quan hệ hàng - tiền, quan hệ giá cả, các quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh... Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp... theo sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển; quan hệ giữa người sản xuất hàng hóa và người tiêu dùng tồn tại khách quan, do quy luật khách quan chi phối.

Nhìn biểu hiện bề ngoài thì kinh tế thị trường là cạnh tranh, là hình thành giá một cách tự phát theo tương quan lực lượng giữa cung [lượng hàng hóa muốn bán và giá bán] và cầu [lượng hàng hóa muốn mua và giá muốn mua] thông qua cơ chế thỏa thuận, tự nguyện được hiện thực hóa bằng hợp đồng, là quyền tự do kinh doanh [tự do sản xuất, tự do mua và bán]. Nhưng, bản chất của kinh tế thị trường là quan hệ hàng - tiền - hàng, hình thức được con người lựa chọn để kết nối các hoạt động mang tính tự do sản xuất, kinh doanh, tự do sáng tạo với nhau nhằm duy trì sự tồn tại xã hội về mặt kinh tế. Nói cách khác, quan hệ hàng - tiền - hàng là chất dung môi để những con người vừa duy trì được sự tự do sản xuất, kinh doanh, nhờ đó chuyên môn hóa sâu hơn, vừa kết nối chặt chẽ với người khác thông qua các quan hệ trao đổi nhằm hợp tác với nhau trong mạng lưới phân công lao động xã hội ngày càng hợp lý hơn. Như vậy, kinh tế thị trường là hình thái kinh tế, trong đó lực lượng sản xuất được tự do phát triển dựa trên quá trình chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày càng nhanh hơn nhờ con người được tự do phát triển những năng lực tiềm tàng của mình trong mối quan hệ hợp tác với nhau thông qua trao đổi hàng - tiền - hàng. Hay nói cách khác, những quan hệ cần thiết cho trao đổi hàng - tiền - hàng, như quyền tự do kinh doanh, sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các bên giao dịch, chế tài bảo đảm sự thực hiện cam kết theo hợp đồng, các quy định thống nhất giữa các bên về đơn vị đo, đơn vị tiền tệ, phương thức giao dịch... là những quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này là tất yếu không phân biệt quốc gia duy trì kinh tế thị trường lựa chọn chế độ chính trị nào. Ngày nay, giới kinh tế hay gọi các quan hệ sản xuất nêu trên là thể chế kinh tế thị trường.

Phát triển nền kinh tế thị trường đòi hỏi càng ngày càng phải dân chủ hóa nền kinh tế, tự do hóa kinh tế để giải phóng và phát triển mọi sức sản xuất xã hội, mở đường cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển ngày càng hiện đại. Lợi ích kinh tế là động lực phát triển quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường, mà trước hết là lợi ích của các nhà đầu tư, người sản xuất, người lao động, người tiêu dùng, của tập thể, nhà nước và toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành tố đều phải tuân theo những quy luật khách quan theo cơ chế vận hành chung là cơ chế thị trường, nhưng đồng thời kinh tế thị trường có tính đặc thù phù hợp với trình độ, thể chế phát triển, điều kiện phát triển cụ thể của mỗi quốc gia. Sự vận động của nền kinh tế thị trường là hướng đến sự cân bằng động về cơ cấu các ngành, các lĩnh vực sản xuất, về tổng lượng hàng hóa... theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ thông tin... đã làm thay đổi đặc tính của nền sản xuất vật chất và kiểu tổ chức, quản lý kinh tế thị trường theo truyền thống. Kinh tế tri thức ngày càng phát triển, phát triển bền vững đang là xu thế chủ đạo, con người từ thế thụ động chuyển sang thế chủ động sáng tạo quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường hiện đại là xu thế phát triển chung hiện nay, là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất xã hội càng hiện đại thì kinh tế thị trường càng hiện đại. Kinh tế thị trường vừa là điều kiện, vừa là biểu hiện trình độ xã hội hóa của nền sản xuất xã hội. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản và cũng không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội, ngược lại, phát triển kinh tế thị trường là con đường, là phương thức, là điều kiện nền tảng để đi tới chủ nghĩa xã hội đích thực trong tương lai. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi những cải biến có tính cách mạng về quan hệ sản xuất cho phù hợp với quá trình hiện đại hóa lực lượng sản xuất. Kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi nhất hợp quy luật khách quan để lực lượng sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất càng phát triển, càng hiện đại, càng xã hội hóa ở trình độ cao, càng đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với nó, mà quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp đó chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Do vậy, quá trình phát triển kinh tế thị trường cũng là quá trình phát triển theo trật tự tự nhiên để xã hội loài người đi lên chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó.

Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải kinh qua kinh tế thị trường. Không phát triển kinh tế thị trường thì không thể đi tới chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, kinh tế thị trường có những lợi thế mà kinh tế hiện vật, tự cung, tự cấp không thể so sánh được: một là, kinh tế thị trường tạo động lực lao động tích cực, tự giác cho từng người lao động thông qua cơ chế cạnh tranh để trở thành người giỏi nhất [sáng tạo nhất, năng động nhất và hợp lý nhất]; hai là, kinh tế thị trường thúc đẩy chuyên môn hóa ngày càng sâu để phát huy tiềm năng nhiều mặt của những con người khác nhau; ba là, kinh tế thị trường phối hợp, điều tiết hành vi của mọi người một cách tự giác thông qua cơ chế trao đổi hàng hóa một cách tự nguyện, thỏa thuận theo quy luật cung - cầu; bốn là, kinh tế thị trường phản ánh mức độ tự do, dân chủ cao trong điều kiện nguồn lực để thỏa mãn nhu cầu còn khan hiếm. Nhưng cần khẳng định: kinh tế thị trường tự nó không thể mang lại chủ nghĩa xã hội cho con người. Nếu kinh tế thị trường vận động tự phát sẽ tất yếu dẫn đến các tổn hại mà xã hội khó chấp nhận: phân hóa giàu - nghèo, người chiến thắng trong cạnh tranh sẽ được hết còn người thua không được gì. Hơn nữa, do nắm trong tay nhiều tư liệu sản xuất, người giàu có thể áp chế người nghèo bằng trao đổi hàng hóa bất công bằng. Đặc biệt, khi của cải tập trung vào tay một nhóm người, nếu họ không thỏa mãn với tỷ suất lợi nhuận mà thị trường đặt ra, của cải sẽ chất đống trong kho, người lao động sẽ không có việc làm. Đây chính là điểm mà Các Mác đã nói rõ: kinh tế hàng hóa [kinh tế thị trường] để tự phát tất yếu tiến lên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường tự phát cũng dẫn đến tàn phá môi trường sống chung vì lợi ích ngắn hạn, gây ra những cú sốc cung - cầu làm cuộc sống trở nên quá bấp bênh... Chính vì thế, nhà nước cần thay mặt xã hội điều tiết kinh tế thị trường, buộc nó phải hoạt động trong những khuôn khổ nhất định. Nhà nước tư sản điều tiết kinh tế thị trường nhưng không thay đổi những nền tảng cơ bản của nó, như sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh doanh, giá cả do thị trường định đoạt là chủ yếu, nhà nước chỉ tham gia điều tiết lại của cải qua ngân sách nhà nước, tác động vào cung hoặc cầu, khi có những “cú sốc”... Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế thị trường thông qua thay đổi chế độ sở hữu của một khối lượng tư liệu sản xuất nào đó hoặc nâng đỡ các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh có lợi cho người lao động, như hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước,... Ở đây, hình thức can thiệp có thể giống nhau giữa các nhà nước tư bản chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhưng mục tiêu thì có sự khác biệt: Nhà nước tư bản chủ nghĩa chỉ hỗ trợ để ổn định thị trường và hỗ trợ ở mức có thể cho những người thua thiệt. Nhà nước xã hội chủ nghĩa chú trọng đào tạo người lao động, tạo điều kiện cho họ làm chủ quá trình sản xuất, phân phối nhằm có lợi cho họ. Ngoài ra, những gì người lao động không thể, thì nhà nước sẽ hỗ trợ bằng lưới an sinh, bằng trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội... Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa nỗ lực tìm kiếm những mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh vừa có hiệu quả, vừa có lợi cho người lao động. Trong giai đoạn hiện tại, kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ điều tiết chủ yếu, nhà nước xã hội chủ nghĩa tham gia điều tiết dựa trên những lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để có nền kinh tế thị trường hiệu quả hơn, có lợi cho người lao động hơn... Chính vì thế, nhà nước xã hội chủ nghĩa không tự giới hạn hoạt động của mình giống như nhà nước tư bản chủ nghĩa. Đó là cơ sở để Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: vừa chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường khách quan, vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Yếu tố xã hội chủ nghĩa đã thể hiện ở chỗ Đảng Cộng sản là đội tiên phong của nhân dân lao động lãnh đạo sự phát triển nền kinh tế thị trường [nếu Đảng Cộng sản biến chất hoặc không đủ sức lãnh đạo thì đương nhiên nền kinh tế thị trường sẽ tự phát lên chủ nghĩa tư bản]. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là thiết chế để nhân dân lao động có thể cải cách mọi thứ có lợi cho họ, cũng là một chủ thể của kinh tế thị trường, chứ không chỉ thuần túy là thiết chế chính trị. Nếu bộ máy và công chức nhà nước thoái hóa đến mức chỉ hành động vì lợi ích của bản thân họ, chà đạp lên lợi ích của nhân dân lao động, thì Đảng Cộng sản sẽ lãnh đạo nhân dân lao động cải tổ nhà nước. Vì kinh tế thị trường có thể thích ứng với nhiều chế độ chính trị khác nhau và phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa tự khẳng định bằng mô hình hiệu quả thực tiễn nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là một cuộc tìm tòi: vừa tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường [vì cho đến nay nó vẫn là hình thức tổ chức kinh tế hiệu quả nhất], vừa tìm các mô hình kinh tế hiệu quả hơn, thích nghi với kinh tế thị trường và có lợi cho người lao động. Như vậy, sự nỗ lực sáng tạo và trung thành với lợi ích chung của nhân dân lao động của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta chính là bản chất xã hội chủ nghĩa. Muốn như vậy, cần 3 điều kiện:

- Nhân dân lao động phải giác ngộ, nâng cao trình độ chính trị và kinh tế của mình để vươn lên làm chủ và là chủ;

- Đảng Cộng sản phải thực sự hành động vì nhân dân lao động và đủ năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội;

- Nhà nước [thực chất là luật pháp và công chức] phải vừa có năng lực quản lý, vừa phải hành động vì lợi ích của nhân dân lao động.

Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”[1].

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo kinh tế thị trường - loại hình kinh tế phổ biến của xã hội loài người - vào điều kiện Việt Nam nhằm phát huy cao độ vai trò tích cực của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế tối đa những khuyết tật, mặt trái của kinh tế thị trường trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Định hướng xã hội chủ nghĩa là tính chất, là thuộc tính của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang xây dựng. Tính chất đặc trưng này được quyết định bởi bản chất của nền kinh tế, bởi chính tính chất của những bộ phận cấu thành, nằm trong kết cấu nội tại của nền kinh tế xác định bản chất và xu thế vận động của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, cơ chế quản lý và phương thức phân phối của nền kinh tế nhằm khai thác đối đa mặt tích cực, lợi thế của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế, khắc phục mặt trái, khiếm khuyết của kinh tế thị trường, phục vụ lợi ích của mọi người dân, hướng đến thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Những vấn đề cơ bản trong thời gian tới

Để đất nước phát triển nhanh, bền vững cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên những phương diện sau:

Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.

Thể chế hóa quyền tài sản [bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản] của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.

Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình [tài sản trí tuệ, thương hiệu,...] trong cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính; xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia lĩnh vực này.

Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.

Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.

Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường

Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và môi trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kiên quyết đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng và các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế.

Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất, kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính, gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành, nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh[2].

Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế; tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân.../.

PGS, TS. Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

------------------------------------------

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 102 - 103

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 104 - 110

Theo: tapchicongsan.org.vn

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề