Tình hình nợ xấu của các ngân hàng hiện nay

Nợ xấu gia tăng

Tại cuộc họp triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2022, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước [NHNN] Đào Minh Tú cho biết, NHNN đặt mục tiêu năm 2021 duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, nhưng do diễn biến phức tạp của dịch bệnh, tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng tăng mạnh. Nếu tính toán một cách cụ thể, tỷ lệ nợ xấu trong năm 2021 có thể cao hơn 8%.

Mặc dù chưa có số liệu đầy đủ cả năm 2021, nhưng thống kê báo cáo tài chính quý 3-2021 của các ngân hàng thương mại [NHTM] cho thấy, dư nợ xấu tuyệt đối tại 27 NHTM  tính đến hết quý 3 năm 2021 đã tăng lên 111.000 tỷ đồng, cao hơn 26% so với đầu năm. Trong đó, 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng, do doanh nghiệp vay phải đối mặt với rất nhiều khó khăn bởi dịch Covid-19. Các NHTM Nhà nước cũng có nợ xấu tăng mạnh do chiếm phần lớn tổng tín dụng của toàn ngành. 

Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank đã tăng gần gấp đôi so với đầu năm 2021, lên mức 1,1%. Trong đó, nợ xấu nhóm 4 [nợ nghi ngờ] tăng 14 lần, nhóm 5 [nợ khó đòi] tăng 45%.

Tương tự, tỷ lệ nợ xấu của Vietinbank cũng tăng gần gấp đôi so với cuối năm 2020, lên mức 1,66%, trong đó nợ nhóm 4 tăng gấp 10 lần. Dù có tỷ lệ nợ xấu giảm nhẹ, nhưng nợ xấu nhóm 5 của BIDV cũng chiếm tới 76% tổng nợ xấu.

Các NHTM tư nhân có nợ xấu tăng mạnh phải kể đến: LienVietPostBank tăng 10% so với đầu năm 2021, lên gần 2.700 tỷ đồng [tính đến cuối quý 3-2021]; Techcombank tăng 41% so với đầu năm 2021, lên 1.820 tỷ đồng; NamABank tăng tới 148,7% so với đầu năm 2021, lên 1.849 tỷ đồng; ACB tăng 53,4%, lên 2.822 tỷ đồng…

Theo Công ty Chứng khoán Agriseco, mặc dù nợ xấu đang hiện hữu nhưng không quá lo ngại vì các ngân hàng đã chủ động trích lập dự phòng lên mức cao kỷ lục. Cùng với đó, thị trường bất động sản [tài sản đảm bảo chính của các ngân hàng] duy trì mặt bằng giá và thanh khoản tích cực sẽ là những điều kiện thuận lợi để các ngân hàng xử lý nợ trong thời gian tới.

Nhiều ngân hàng tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu. Ảnh: PHAN LÊ

Trích lập dự phòng cao

 Hiện các NHTM đang thực hiện Thông tư hướng dẫn của NHNN về giảm, hoãn, cơ cấu hỗ trợ doanh nghiệp để không gây tắc nghẽn mạch máu kinh tế. Tức là thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng vẫn chưa bộc lộ hết, vì đang được phép cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Tuy nhiên, toàn bộ dư nợ được cơ cấu là nợ dưới chuẩn nên khả năng trở thành nợ xấu rất cao.

Lường trước nợ xấu từ nợ tái cơ cấu nên nhiều NHTM đã tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro để gia tăng “bộ đệm” chống đỡ. Việc tăng mạnh trích lập dự phòng đã ăn mòn lợi nhuận của các ngân hàng. Cụ thể, mặc dù lợi nhuận lũy kế 3 quý đầu năm 2021 của nhiều NHTM báo lãi trên 10.000 tỷ đồng, nhưng mức tăng trưởng lợi nhuận trong quý 3 của các NHTM lại ở mức thấp, thậm chí còn âm so với cùng kỳ. 

Chẳng hạn, lợi nhuận trước thuế trong quý 3 của Vietcombank chỉ tăng 15,2% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với các NHTM tư nhân khác. Tăng trưởng lợi nhuận quý 3 của VietinBank cũng chỉ ở mức 5,4%, còn BIDV có lợi nhuận trước thuế quý 3 thậm chí giảm 1% so với cùng kỳ năm ngoái.

Lý giải lợi nhuận tăng thấp, đại diện VietinBank cho biết, ngân hàng đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ khách hàng và trích lập dự phòng rủi ro cao hơn mức quy định. Theo lãnh đạo Vietinbank, việc trích lập dự phòng cao không chỉ đảm bảo cho các khoản nợ xấu phát sinh do dịch Covid-19 mà còn là cơ sở để xử lý các biến cố cho ngân hàng trong năm 2022.

Lãnh đạo Vietcombank cũng cho biết, là ngân hàng đầu tiên trích lập dự phòng 100% cho cả dư nợ tái cơ cấu theo quy định của NHNN. Điều này có thể làm ảnh hưởng lợi nhuận ngân hàng trong năm 2021 nhưng sẽ có lợi trong các năm tới. VPBank cũng cho hay, chi phí dự phòng rủi ro quý 3-2021 tăng 28,6% so với cùng kỳ, lên 4.978 tỷ đồng nên đã ăn mòn 65% lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, lợi nhuận trước thuế hợp nhất trong quý 3-2021 giảm 4,1% so với cùng kỳ.

Theo lãnh đạo VPBank, gia tăng trích lập dự phòng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, việc này là cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng bất định đến nền kinh tế.

Đánh giá về tình hình nợ xấu của ngành ngân hàng, các công ty chứng khoán nhận định, dù nợ xấu có thể gia tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát. Hơn nữa, nợ cần chú ý [nợ nhóm 2] của các ngân hàng tăng trong quý 3 có thể gây áp lực tăng nợ xấu trong tương lai, nhưng các khoản nợ tái cơ cấu được kỳ vọng sẽ trở lại bình thường khi tình hình dịch được kiểm soát, các doanh nghiệp dần khôi phục sản xuất kinh doanh.

* Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc NHNN: Kiểm soát chặt vốn chảy vào lĩnh vực rủi ro Dịch bệnh kéo dài khiến doanh nghiệp, khách hàng gặp khó khăn, vòng quay vốn chậm, dòng tiền đứt gãy, doanh thu giảm. Điều này dẫn đến việc mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ... Năm nay, những tác động của dịch bệnh đến ngành ngân hàng sẽ mạnh hơn do có độ trễ. Do đó, NHNN sẽ đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để kiểm soát và xử lý nợ xấu, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Đồng thời, sẽ tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, để duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức an toàn dưới 3%.  Theo đó, về tín dụng cho vay đối với lĩnh vực chứng khoán, bất động sản và những doanh nghiệp phát hành trái phiếu có biểu hiện không lành mạnh, sẽ không được tập trung vốn, tăng cường kiểm soát chặt chẽ. Tín dụng cho nhà ở xã hội, nhu cầu nhà ở thực của người dân sẽ được ngân hàng ưu tiên vốn.

* Ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng: Cần sớm luật hóa xử lý nợ xấu

Dịch Covid-19 khiến tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu tăng cao trở lại. Trong khi đó, Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội hết hiệu lực chỉ trong vài tháng nữa, khiến áp lực xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng trong thời gian tới là rất lớn. Vì vậy, việc luật hóa xử lý nợ xấu sẽ làm tăng hiệu lực, hiệu quả của công tác thể chế.  Do đó, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề nghị NHNN báo cáo Chính phủ sớm tổng kết Nghị quyết 42, trên cơ sở đó đề xuất, trình Quốc hội cho kéo dài hiệu lực Nghị quyết 42/2017 hoặc ban hành Luật Xử lý nợ xấu để có thêm các công cụ hữu hiệu trong việc xử lý nợ xấu. Việc luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu là rất cần thiết, khi đó lĩnh vực xử lý nợ xấu sẽ có văn bản luật riêng để điều chỉnh, có giá trị pháp lý cao hơn, giúp cho ngành ngân hàng và các cơ quan nhà nước liên quan phối hợp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn.

* TS Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính tiền tệ quốc gia: Các gói hỗ trợ nên ưu tiên cho người lao động

Năm 2021 do dịch bệnh tàn phá nên tăng trưởng kinh tế thấp kỷ lục. Trong bối cảnh đó, NHNN đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu của mình là kiểm soát lạm phát ở mức thấp, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Mặc dù dịch Covid-19 khiến nợ xấu có xu hướng tăng mạnh, song tất cả các ngân hàng đều có thanh khoản tốt. Nhiều ngân hàng còn phải giảm lãi vay hỗ trợ doanh nghiệp từ nguồn lợi nhuận của mình. Nhiều người cho rằng, các ngân hàng lãi lớn, việc hỗ trợ doanh nghiệp là đương nhiên. Tuy nhiên, thực tế lợi nhuận ngân hàng năm 2021 là lợi nhuận “ảo”. 

Nếu thời gian tới, NHNN dừng chính sách giãn hoãn, cơ cấu nợ, hàng loạt khoản vay biến thành nợ xấu, buộc mạnh tay trích lập dự phòng, khi đó lợi nhuận ngân hàng có thể sẽ giảm mạnh. Do đó, năm 2022, NHNN cần tập trung hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thị trường hơn. Đồng thời, phải giảm dần các gói giãn, hoãn và yêu cầu các ngân hàng tăng trích lập dự phòng, nhận diện nợ xấu. Các gói hỗ trợ trực tiếp thời gian tới chỉ nên ưu tiên hỗ trợ cho người lao động. Riêng với doanh nghiệp, ngoài gói hỗ trợ lãi suất, cần có nguồn lực tài chính trực tiếp từ ngân sách để bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay chứ không chỉ chăm chăm vào ngành ngân hàng.

NHUNG NGUYỄN

THÁI BẢO

Nợ xấu tăng mạnh

Trong báo cáo cập nhật ngành mới công bố, Công ty Chứng khoán VNDirect dự báo, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại [NHTM] sẽ có sự cải thiện trong quý IV/2021 và đạt ít nhất 12% cho cả năm 2021; tuy vậy, chất lượng tài sản mới là vấn đề đáng lo ngại lúc này của các ngân hàng. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu trung bình đã tăng lên 1,64% vào cuối quý III/2021, trong khi tỷ lệ này hồi cuối quý II/2021 là 1,49%. 

Ngoài ra, theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nợ tái cơ cấu toàn hệ thống ngân hàng đã tăng lên 250.000 tỷ đồng [2,5% tín dụng hệ thống] vào cuối tháng 11/2021, so mức 227.000 tỷ đồng hồi cuối tháng 8.

“Do đó, các ngân hàng sẽ phải cân bằng lại giữa mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận và kiểm soát chất lượng tài sản trong bối cảnh biên lợi nhuận ròng [NIM] thấp hơn và khẩu vị rủi ro ngày càng tăng”, báo cáo của VNDirect cho hay.

Một thống kê gần đây về nợ xấu của 27 ngân hàng cho hay, tỷ lệ nợ xấu của nhóm này tính đến ngày 30/9/2021 đã ở mức hơn 113.000 tỷ đồng, tăng gần 26% so hồi đầu năm 2021. Trong số 27 ngân hàng được thống kê, có tới 19 ngân hàng ghi nhận nợ xấu tăng, chỉ tám ngân hàng công bố giảm.

“Quán quân” nợ xấu của nhóm này, tính theo giá trị tuyệt đối tăng, là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam [VietinBank]. Theo số liệu báo cáo, tổng nợ xấu nội bảng của VietinBank tính đến cuối tháng 9/2021 là 18.097 tỷ đồng, tăng 8.579 tỷ đồng [tương đương 90,1%] so đầu năm. 

Xét theo tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay thì hiện Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng [VPBank] đang là ngân hàng duy nhất có tỷ lệ hơn 3%. Đây là con số trên báo cáo kết quả hợp nhất toàn hệ thống, có sự tham gia của phân khúc tín dụng tiêu dùng tại FE Credit. Còn riêng tại ngân hàng mẹ VPBank, tỷ lệ nợ xấu/cho vay ở mức 2,28%, giảm đáng kể so mức 2,52% hồi đầu năm.

Ngoài ra, một số ngân hàng đang có tỷ lệ gia tăng nợ xấu đáng báo động vào cuối quý III/2021 so đầu năm là NamABank 148,7%, Vietcombank [108%], VietBank [58,5%], ACB [53,4%], ABBank 46,5%,…

TS Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế nhận định, theo thông lệ quốc tế, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng cho vay thì nợ xấu trở thành nguy cơ đầu độc không chỉ môi trường tài chính - tín dụng, mà còn cả nền kinh tế. Vì vậy, nỗ lực xử lý nợ xấu là nhiệm vụ không chỉ của các tổ chức tín dụng, của ngành ngân hàng, mà là của toàn bộ hệ thống kinh tế - tài chính.

Đáng lưu ý, con số kể trên chỉ là phần nổi của “tảng băng chìm” về nợ xấu hiện nay. Bởi vì, Thông tư 14/2021/TT-NHNN ngày 7/9/2021 [trước đó là Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020, Thông tư 03/2020/TT-NHNN ngày 2/4/2021] của Ngân hàng Nhà nước về cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi Covid-19 đã khiến cho một phần lớn nợ xấu bị giấu đi, không phản ánh chân thực chất lượng tài sản của các ngân hàng.

TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho rằng, có một nghịch lý là trong khi nền kinh tế kiệt quệ vì đại dịch, mỗi tháng trung bình 10.000 doanh nghiệp rời khỏi thị trường nhưng lợi nhuận ngân hàng lại tăng trưởng cao. “Chỉ cần nhìn vào lợi nhuận ngân hàng tăng nhưng dòng tiền khó khăn là đủ biết nợ xấu đang rất lớn”, ông Nghĩa nhận định. 

Các ngân hàng sẽ phải cân bằng lại giữa mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận và kiểm soát chất lượng tài sản.  

Thách thức đối với chính sách tiền tệ

Bà Bùi Thúy Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ [Ngân hàng Nhà nước] cho biết,  tính đến ngày 25/10/2021, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho hơn 330.000 khách hàng bị ảnh hưởng dịch với dư nợ 250.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho khoảng 1,8 triệu khách hàng bị ảnh hưởng dịch với dư nợ gần 3,5 triệu tỷ đồng; cho vay mới với lãi suất thấp cho hơn một triệu khách hàng, đạt hơn bảy triệu tỷ đồng.

Sau những nỗ lực trên của hệ thống ngân hàng, hiện mặt bằng lãi suất huy động giảm khoảng 0,4%/năm và lãi suất cho vay giảm khoảng 0,7%/năm so tháng 12/2020.

Trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội 2022-2023 dự kiến có quy mô 800.000 tỷ đồng do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì soạn thảo, đang được lấy ý kiến trước khi trình Chính phủ, một trong những đề xuất quan trọng là tiếp tục củng cố dư địa chính sách tiền tệ để phục hồi kinh tế.

Bàn về nội dung của Chương trình này, TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam [BIDV] cho rằng, hiện dư địa chính sách tài khóa của chúng ta còn khả quan trong khi không gian chính sách tiền tệ thì hẹp hơn vì thời gian qua đã giảm lãi suất tương đối sâu. 

Tuy vậy, theo ông Lực, chúng ta vẫn có thể sử dụng hàng loạt công cụ tác động khác để hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm thêm lãi suất cho vay 0,5-1%/năm trong năm 2022 và duy trì ổn định trong 2023.

Trong khi đó, TS Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á [ADB] tỏ ra thận trọng hơn khi nhận định, so với các nước trong khu vực, Việt Nam đã sử dụng tương đối nhiều dư địa của chính sách tiền tệ, có thể nói đã đến ngưỡng cân nhắc an toàn hệ thống, vì con số nợ xấu [cả nợ xấu tiềm ẩn] đã lên tới 7%.

Trước đó, tại phiên thẩm tra về tình hình kinh tế-xã hội do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tiến hành hồi cuối tháng 9, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh cho biết, tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn cả hệ thống cuối năm nay dự kiến sẽ ở mức từ 7,1%-7,7%. 

Cùng quan điểm, TS Lê Xuân Nghĩa cảnh báo bài học từ gói kích cầu tín dụng bằng lãi suất trị giá 17.000 tỷ đồng năm 2009 mà đến nay còn chưa khắc phục xong hậu quả. Theo ông Nghĩa, việc quá lệ thuộc vào chính sách tiền tệ năm 2009 khi bơm ra thị trường gói tín dụng quá lớn trong thời gian ngắn đã gây nên hiện tượng “bong bóng” tài sản và để lại đống nợ xấu khủng khiếp vào năm 2011. Thậm chí, ông Nghĩa còn đề nghị không yêu cầu ngân hàng thương mại giảm lãi suất khiến lãi suất bị “méo mó”, doanh nghiệp cần hỗ trợ thì gửi hồ sơ đến Bộ Tài chính.

Dự báo xu hướng lãi suất sắp tới, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc phân tích, Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam nhận định, từ nay đến cuối năm nhiều khả năng lãi suất cho vay sẽ đi ngang và chậm nhất đến cuối quý II/2022 sẽ tăng nhẹ trở lại. “Các ngân hàng thương mại sẽ không tiếp tục “gồng” lãi suất được nữa, mặt khác họ cũng phải tăng lại lãi suất cho vay để có cơ sở tăng lãi suất huy động nhằm thu hút nguồn vốn phục vụ nền kinh tế trong năm sau”, ông Minh phân tích.

“Thông tư của Ngân hàng Nhà nước làm cho bức tranh lợi nhuận ngân hàng tốt đẹp hơn thực tế vì không có “nhảy nhóm”, các ngân hàng được chủ động tỷ lệ trích lập dự phòng. Điều này tiềm ẩn “cú sốc” cho ngân hàng khi Thông tư hết thời hạn, nợ xấu sẽ trở về nguyên trạng”, TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính nhận định.

Video liên quan

Chủ Đề