Tư thế chọc dò tủy sống

Chọc dò tủy sống được dùng để:

Đánh giá áp lực nội sọ và thành phần DNTxem Bảng: Các bất thường về dịch não tủy trong các rối loạn khác nhau]

Điều trị giảm áp lực nội sọ [ví dụ, tăng áp lực nội sọ vô căn]

Tiêm các thuốc hoặc chất tương phản phóng xạ vào khoang dưới nhện để chụp tủy cản quang

Chống chỉ định tương đối bao gồm

Nhiễm trùng tại vị trí chọc kim

Nguy cơ xuất huyết

Tăng áp lực nội sọ do khối choán chỗ nội sọ, gây tắc nghẽn lưu thông DNT [ví dụ do hẹp cống não hoặc dị dạng Chiari I] hoặc tắc mạch não tủy [ví dụ do khối u đè ép]

Nếu phù gai hoặc dấu hiệu thần kinh khu trú, nên làm CLVT hoặc CHT trước khi chọc dò tủy sống để loại trừ khối choán chỗ có thể gây thoát vị qua lều hoặc thoát vị tiểu nãoxem Hình: Thoát vị não.].

Thủ thuật chọc dò tủy sống

Bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng trái ,được yêu cầu ôm đầu gối và gập lưng càng nhiều càng tốt. Người phụ làm thủ thuật phải giữ cố định nếu bệnh nhân không thể duy trì tư thế này, hoặc cột sống có thể bị uốn cong tốt hơn bằng cách yêu cầu bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân béo phì, ngồi bên cạnh giường và cúi người về phía trước qua một bàn đặt trên giường.

Làm sạch bằng cồn i-ốt một vùng có đường kính 20cm, sau đó lau bằng cồn để loại bỏ i- ốt và ngăn chặn sự xâm nhập của nó vào khoang dưới nhện. Một kim chọc dịch với nòng được đưa vào vào khoảng liên đốt L3-L4 hoặc L4-L5 [gai sau của đốt L4 thường là trên một đường thẳng nối giữa các mào chậu phía sau trên]; lưng kim hướng về phía rốn của bệnh nhân và luôn song song với sàn. Khi vào được khoảng dưới nhện thường có cảm giác hẫng ở tay; rút nòng kim chọc dịch để dịch não tủy chảy ra ngoài.

Áp lực dịch não tủy được đo bằng áp kế; 4 ống mỗi ống chứa khoảng 2 đến 10 mL DNT để xét nghiệm. Chỗ chọc kim được dán băng dính vô trùng.

Hiện tượng đau đầu sau chọc dò tủy sống xảy ra ở khoảng 10% bệnh nhân.

Chọc dò tủy sống

Đối với thủ thuật này, bệnh nhân thường ở vị trí nằm nghiêng bên trái. Một kim chọc dò có nòng được đưa vào khoảng liên đốt L3 - L4 hoặc L4 - L5 [gai sau của L4 thường nằm trên một đường giữa nối mào chậu sau trên]; mũi vát kim hướng về phía rốn của bệnh nhân và luôn song song với sàn. Khi vào được khoảng dưới nhện thường có cảm giác hẫng ở tay; rút nòng kim chọc dịch để cho phép dịch não tủy chảy ra ngoài.

Màu DNT

DNT bình thường trong và không màu; Nếu có  300 tế bào /μL sẽ gây màu ám khói hoặc đục.

Dịch lẫn máu có thể do chọc chạm ven [đâm kim vào quá xa, vào xoang tĩnh mạch dọc theo trước ống tủy sống] hoặc xuất huyết dưới nhện. Phân biệt chạm ven khi chọc dò bằng

màu đỏ của dịch não tủy nhạt dần giữa ống 1 và 4 [xác nhận bằng việc giảm số lượng hồng cầu]

Không có xanthochromia [dịch não tủy màu vàng do hồng cầu ly giải] trong một mẫu ly tâm

Hồng cầu tươi, không gai

Với xuất huyết dưới nhện, DNT lẫn máu đều trong suốt quá trình lấy bệnh phẩm; xanthochromia thường xuất hiện sau khi đột quỵ vài giờ; hồng cầu thường già hơn và có khía. Dịch màu vàng nhạt cũng có thể là do nhiễm sắc thể già, vàng da nghiêm trọng, hoặc tăng protein [> 100 mg / dL].

Số tế bào, nồng độ glucose và protein của DNT

Số lượng tế bào, sự biệt hóa, nồng độ glucose và protein hỗ trợ chẩn đoán nhiều bệnh lý thần kinh [xem Bảng: Các bất thường về dịch não tủy trong các rối loạn khác nhau].

Thông thường, tỷ lệ glucose trong DNT/ máu là khoảng 0,6, và ngoại trừ hạ đường huyết trầm trọng, glucose DNT thường > 50 mg / dL [> 2,78 mmol / L].

Tăng protein DNT [> 50 mg / dL] là một chỉ số nhạy cảm nhưng không đặc hiệu của bệnh; protein tăng lên > 500 mg / dL trong viêm màng não mủ, viêm màng não lao tiên triển, nghẽn dịch não tủy hoàn toàn do u tủy, hoặc chọc dịch não tủy chạm ven gây chảy máu. Xét nghiệm định lượng globulin [thường < 15%], điện di băng oligoclonal và protein cơ bản của myelin hỗ trợ chẩn đoán các bệnh mất myelin.

Nhuộm, xét nghiệm, và nuôi cấy DNT

Nếu nghi ngờ nhiễm trùng , các mẫu DNT ly tâm được nhuộm tìm vi khuẩn [nhuộm Gram], bệnh lao [nhuộm kháng acid hoặc miễn dịch huỳnh quang], và Cryptococcus sp [mực Ấn Độ]. Lượng dịch lớn hơn [10ml] làm tăng khả năng phát hiện mầm bệnh, đặc biệt là vi khuẩn kháng acid và một số loại nấm, khi nhuộm và nuôi cấy. Trong viêm màng não mô cầu hoặc giảm bạch cầu nặng, protein DNT có thể quá thấp để vi khuẩn bám vào lớp thủy tinh trong quá trình nhuộm Gram, tạo ra kết quả âm tính giả. Trộn một giọt huyết thanh vô trùng với mẫu DNT để ngăn cản vấn đề này. Khi nghi ngờ viêm màng não xuất huyết, sử dụng phương pháp siu tươi huyết trắng để tìm kiếm amip. Các xét nghiệm đông máu và phản ứng cố định hạt latex có thể cho phép nhận diện vi khuẩn nhanh chóng, đặc biệt khi nhuộm và nuổi cấy âm tính [ví dụ trong viêm màng não mất giai đoạn đầu]. DNT nên được cấy trong môi trường yếm khí và có hiếu khí để tìm vi khuẩn kháng acid và nấm.

Ngoại trừ enterovirus, hiếm khi phân lập được virus từ DNT. Các bảng kháng thể virus có sẵn.

Các xét nghiệm VDRL [VIRL] và xét nghiệm kháng nguyên cryptococcus thường được thực hiện thường quy. Các xét nghiệm PCR cho vi rút herpes simplex và các mầm bệnh CNS khác đang ngày càng có sẵn.

Chủ Đề