Ví dụ về chuyển di ngôn ngữ tiêu cực

Lê Đình Tư

Ngôn ngữ học đối chiếu và các lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ

1. Vài nét về lịch sử

Ngôn ngữ học gồm ba ngành chính:

+ Thời kì đầu: Chỉ miêu tả ngôn ngữ [Ngôn ngữ học miêu tả];

+ Đến cuối thế kỉ XIX: So sánh các ngôn ngữ [Ngôn ngữ học so sánh];

+ Cuối thế kỉ XIX đến nay: Ngôn ngữ học lí thuyết.

Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân ngành của Ngôn ngữ học so sánh.

Ngôn ngữ học so sánh bao gồm:

+ Ngôn ngữ học so sánh lịch sử: Phát triển mạnh vào thế kỉ XIX. Tuy nhiệm vụ chính của nó là xác định rõ nguồn gốc của các ngôn ngữ và quá trình phát triển của các ngôn ngữ nhưng có ảnh hưởng rất quan trọng đến lịch sử phát triển của ngôn ngữ học thế giới nói chung.

+ Ngôn ngữ học so sánh loại hình/Loại hình học ngôn ngữ: Phát triển mạnh ở thế kỉ XIX và tiếp tục phát triển. Nhiệm vụ chính: 1/ Phân loại các ngôn ngữ dựa vào những điểm giống nhau trong cấu trúc ngôn ngữ; và 2/ Tìm ra các phổ niệm ngôn ngữ. Hướng nghiên cứu thứ hai có nhiều điểm chung với Ngôn ngữ học đại cương.

+ Ngôn ngữ học đối chiếu: Phát triển mạnh và trở thành một lĩnh vực nghiên cứu độc lập từ những năm 50 của thế kỉ trước, do nhu cầu khắc phục lỗi trong quá trình học ngoại ngữ. Tuy nhiên, việc đối chiếu các ngôn ngữ với nhau đã được tiến hành từ lâu. Vì vậy, ngày nay người ta thường phân biệt 3 thời kì phát triển của Ngôn ngữ học đối chiếu:

* Thời kì thứ nhất [từ những năm 80 của thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX]: Phát triển ở Đức, Pháp sau đó ở Nga. Đối tượng đối chiếu là từ vựng và ngữ pháp. Kết quả là sự ra đời của các cuốn từ điển nhiều thứ tiếng [ví dụ: “Thư mục về các ngôn ngữ đã biết và các nhận xét về những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng” của các nhà ngôn ngữ học Đức. Về ngữ pháp, cuốn ngữ pháp của Port-Royal được xây dựng trên cơ sở phân tích đối chiếu các tiếng Hy Lạp cổ, tiếng Do Thái cổ với tiếng Latinh và tiếng Pháp trở thành một mẫu hình cho việc miêu tả các ngôn ngữ.

* Thời kì thứ hai [thế kỉ XIX]: Ngôn ngữ học đối chiếu hòa vào ngôn ngữ học so sánh-lịch sử. Thời kì này, ranh giới giữa các nghiên cứu so sánh-lịch sử, loại hình học và đối chiếu chưa được phân biệt rõ ràng. Mục đích nghiên cứu đối chiếu hay so sánh-lịch sử là nhằm xác định các dòng họ hoặc các nhóm ngôn ngữ.

* Thời kì thứ ba [từ đầu thế kỉ XX]: Ngôn ngữ học đối chiếu nói riêng và ngôn ngữ học nói chung phát triển mạnh mẽ do nhu cầu học và sử dụng ngoại ngữ tăng lên. Thời kì này, ngôn ngữ học đối chiếu gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ học miêu tả. Tuy nhiên, người ta không chỉ kết hợp các nghiên cứu đối chiếu với miêu tả ngôn ngữ mà còn kết hợp với nghiên cứu loại hình và nghiên cứu so sánh-lịch sử.

2. Ngôn ngữ học đối chiếu và khoa học giảng dạy ngoại ngữ

Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình phát triển của ngôn ngữ học so sánh. Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay thì ngôn ngữ học đối chiếu khác với ngôn ngữ học so sánh ở chỗ: nó bao quát nhiều ngôn ngữ , bất luận ngôn ngữ đó có loại hình giống nhau hay khác nhau, có cùng nguồn gốc hay khác nguồn gốc. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình tìm kiếm một cách dạy và học ngoại ngữ nhanh hơn và hiệu quả hơn. Như vậy, các yêu cầu của việc học và dạy ngôn ngữ là nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình thành của ngôn ngữ học đối chiếu.

Trong quá trình học ngoại ngữ, tiếng mẹ có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với người học. Ảnh hưởng tích cực gọi là chuyển di tích cực. Hiện tượng này xảy ra khi giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ có sự giống nhau hoàn toàn. Còn ảnh hưởng tiêu cực gọi là chuyển di tiêu cực. Hiện tượng chuyển di tiêu cực thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập. Chuyển di tiêu cực là hiện tượng xảy ra khi có sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại ngữ cũng giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai thứ tiếng có sự khác biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ được người học ghi nhớ trở thành thói quen của người học và rất khó sửa.

Để nâng cao hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ, cần phải tìm cách khắc phục hiện tượng chuyển di tiêu cực và lợi dụng những chuyển di tích cực, nghĩa là phải tìm ra những điểm khác nhau và giống nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Việc này có thể thực hiện được nhờ vào việc nghiên cứu đối chiếu hai ngôn ngữ.
Như vậy, ngôn ngữ học đối chiếu, theo nghĩa hẹp, là một lĩnh vực nghiên cứu gắn bó chặt chẽ với khoa học giảng dạy ngoại ngữ, trong đó các hiện tượng tâm lí-ngôn ngữ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng.

_______________________________________________

[1]

BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ TRONG Q TRÌNH


THỤ ĐẮC NGƠN NGỮ THỨ HAI THÔNG QUA CÁCH SỬ DỤNG


TỪ BIỂU THỊ MỤC ĐÍCH “为了” TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI



Đỗ Thị Thúy Hà*


Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên


TÓM TẮT


Nghiên cứu về chuyển di ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu thụ đắc ngôn ngữ thứ hai. Các nhà ngôn ngữ học đã sớm phát hiện ra rằng, việc học tập và nắm vững một loại ngơn ngữ nào đó sẽ có tác dụng bổ trợ cho việc thụ đắc một loại ngôn ngữ khác. Trong q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai, người học sẽ lợi dụng tất cả những kiến thức đã có về ngơn ngữ [ngơn ngữ thứ nhất] để phát triển ngơn ngữ đích [ngơn ngữ thứ hai]. Điều đó có nghĩa là hiện tượng chuyển di ngơn ngữ là không thể tránh khỏi. Nhưng chuyển di ngôn ngữ có mặt tích cực và mặt tiêu cực của nó, do vậy, trong dạy học không thể coi nhẹ hiện tượng này. Bài viết trên cơ sở quan sát thực trạng sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên, đi sâu tìm hiểu ảnh hưởng của sự chuyển di ngôn ngữ trong q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai và từ đó đưa ra một số gợi ý trong dạy học ngôn ngữ thứ hai [cụ thể là tiếng Hán] cho người Việt Nam.


Từ khóa: thụ đắc ngơn ngữ, chuyển di ngôn ngữ, 为了, tiếng Hán, tiếng Việt


ĐẶT VẤN ĐỀ**


Từ đầu những năm 60, 70 của thế kỷ 21, nghiên cứu q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai đã là một môn khoa học độc lập, hệ thống lý luận của nó được xây dựng dựa trên mục tiêu là miêu tả q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai và giải thích đặc trưng của việc thụ đắc ngơn ngữ thứ hai. Khơng thể phủ nhận vai trị của việc nghiên cứu quá trình thụ đắc, trong đó nhấn mạnh nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình này đối với cơng việc giảng dạy tiếng nước ngồi. Trước sự phát triển như vũ bão của ngành giảng dạy tiếng Hán hiện nay, công việc nghiên cứu này ngày càng được coi trọng. Phạm trù mục đích là một phạm trù được sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp của con người. Trong tiếng Hán để biểu thị mục đích ta có thể sử dụng các từ ngữ, kết cấu như “为了”, “为”,“以”,“以便”,“好”,“免得”,“为的是”,“是为了”. Trong đó “为了” có tần suất sử dụng nhiều hơn cả. Trong tiếng Việt cũng có khơng ít các chỉ tố chỉ mục đích như “để”, “để mà”, “nhằm”, “hịng”, “cốt”… Người Việt nam khi học tiếng Hán sẽ có xu hướng đem hiểu biết về kiến thức tiếng mẹ đẻ vận dụng vào sử dụng ngơn ngữ đích, hay chính là ở đây đã xuất hiện một sự chuyển di, điều này đem đến



*


Tel: 0914 598599; Email:


cho người học nhiều thuận lợi nhưng cũng không thể khơng bàn đến những khó khăn. Dưới đây chúng tôi tập trung bàn về sự chuyển di này thơng qua tình hình sử dụng từ chỉ mục đích “为了” của sinh viên chuyên ngành tiếng Trung.


HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGƠN NGỮ Q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai là một quá trình gây dựng giả thiết và thử nghiệm giả thiết mang tính sáng tạo. Trong q trình này, người học sẽ vận dụng những kiến thức đã có, bao gồm cả kiến thức về ngôn ngữ mẹ đẻ để phát triển ngôn ngữ trung gian của mình. Hiểu theo nghĩa này thì sự xuất hiện của hiện tượng chuyển di ngơn ngữ là không thể tránh khỏi, hiện tượng này là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai.

[2]

loại hiện tượng như là chuyển di, rào cản, tránh né, vay mượn, lỗi liên quan đến ngôn ngữ thứ hai... Điều này cũng đem đến tiềm năng cho việc nghiên cứu sự khác biệt và tương đồng giữa các hiện tượng trên.


Một vài quan điểm có ảnh hưởng đến hiện tượng chuyển di ngơn ngữ


Chuyển di ngơn ngữ có ảnh hưởng đến việc thụ đắc ngôn ngữ thứ hai hay không, mức độ ảnh hưởng thế nào và ảnh hưởng ra sao đã trở thành những vấn đề cơ bản mà các nhà nghiên cứu cần giải đáp. Trong quá trình phát triển của mình, chuyển di ngơn ngữ đã trải qua hai giai đoạn lịch sử quan trọng, đó là giai đoạn nghiên cứu dựa theo khung lý thuyết của chủ nghĩa hành vi lấy giả thiết phân tích đối chiếu là chủ đạo và giai đoạn nghiên cứu dựa theo khung lý thuyết của lý luận tri nhận lấy giả thiết ngôn ngữ trung gian là chủ đạo.


Chuyển di ngôn ngữ được phát triển sớm nhất từ trong lĩnh vực phân tích đối chiếu. Từ những năm 50, phân tích đối chiếu bắt đầu xuất hiện và từ đó nhanh chóng chiếm vị trí đầu tiên trong nghiên cứu giảng dạy ngơn ngữ thứ hai. Lado [1957] dưới sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hành vi và chủ nghĩa cấu trúc đã đưa ra giả thuyết phân tích đối chiếu, trong đó ơng đã cho rằng, hiện tượng chuyển di ngôn ngữ là một trở ngại đáng kể trong việc thụ đắc ngôn ngữ thứ hai, thông qua việc so sánh, đối chiếu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ đích có thể dự đốn trước được lỗi mà người học ngơn ngữ thứ hai dễ mắc phải cũng như những điểm khó trong quá trình học. Trong giai đoạn này, người ta đã thừa nhận tác dụng của tiếng mẹ đẻ trong việc thụ đắc ngôn ngữ thứ hai. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ đích đem đến sự “chuyển di tích cực” và sự khác biệt giữa chúng sẽ đem đến “sự chuyển di tiêu cực”. Từ đó, Lado và các nhà nghiên cứu đã có kết luận rằng, “phần giống nhau giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ đích thì dễ học, phần khác nhau thì khó học”. Quan điểm này đã được khái quát hóa giản đơn thành công thức “khoảng cách = độ khó”, tức là khoảng cách lớn nhỏ giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ đích tỉ lệ thuận với độ khó của việc học [1]. Tới những năm 70, cùng với sự phát triển của lĩnh


vực nghiên cứu lỗi, phân tích đối chiếu dần không được coi trọng, nhưng nghiên cứu hiện tượng chuyển di ngôn ngữ vẫn không dừng lại, nhiều cơng trình nghiên cứu trên cơ sở của phân tích đối chiếu, từ nhiều góc độ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đã đi sâu tìm hiểu mối quan hệ “khoảng cách = độ khó” đã nói ở trên, trong đó một vài nghiên cứu đã chứng minh được lý luận của Lado.


Những vấn đề cần được nghiên cứu tiếp mà lĩnh vực nghiên cứu đối chiếu để lại khiến cho các nhà nghiên cứu nhận ra rằng chuyển di ngôn ngữ không phải là hiện tượng đơn giản như Lado và các nhà nghiên cứu đã nghĩ và họ đã đem lý luận tiêu chí ngơn ngữ vào việc nghiên cứu hiện tượng này. Lý luận tiêu chí với nền tảng cơ sở là khái niệm tiêu chí, là nguyên tắc quan trọng để phân tích hệ thống ngơn ngữ. Mục đích chính của lý luận này là thơng qua phân tích hiện tượng tiêu chí trong các hệ thống ngơn ngữ nhỏ để xây dựng nên những mơ hình tiêu chí ngơn ngữ. Những khó khăn của người học ngơn ngữ thứ hai có thể dựa vào lý luận này để dự đốn vì lý luận tiêu chí ngơn ngữ đã trả lời được câu hỏi chuyển di ngôn ngữ xuất hiện ở đâu và bằng những phương thức nào.


Các hình thức biểu hiện chính của chuyển di ngôn ngữ [liên hệ từ biểu thị mục đích trong tiếng Hán và tiếng Việt]

[3]

Bảng 1. Tình hình sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên chuyên ngành tiếng Trung Quốc


Nội dung


Đối tượng


Số bài khảo sát Tần suất sử dụng Tỷ lệ sử dụng chính xác


Tỷ lệ sử dụng khơng chính xác Số bài Tỷ lệ Số bài Tỷ lệ Số bài Tỷ lệ Sinh viên năm


thứ 3



108 23 21,2 % 13 56,5 % 10 43,5 %


Theo số liệu trong bảng trên cho thấy, tỷ lệ bài viết có sử dụng các từ ngữ chỉ mục đích “为了” là rất thấp [chiếm 18%], trong đó, số bài sử dụng chính xác và khơng chính xác có tỷ lệ khá cao và độ chênh lệch khơng lớn. Ngồi ra, ngữ liệu của bài viết cịn được thu thập từ nguồn bài tập mơn dịch 1 [Dịch Trung – Việt] của sinh năm thứ 3 chuyên ngành tiếng Trung Quốc. Kết quả thu được là các câu có sử dụng từ ngữ chỉ mục đích “为了” trong tiếng Hán, bao gồm cả câu chính xác và khơng chính xác.


1] Chuyển di tiêu cực: Chuyển di tiêu cực chỉ việc mượn tiếng mẹ đẻ để biểu đạt ngôn ngữ thứ hai nhưng lại không phù hợp với thói quen biểu đạt của ngơn ngữ thứ hai đó , hoặc khơng được người bản địa dùng ngơn ngữ đó chấp nhận, do đó kết quả là đã sinh ra lỗi. Khi giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ hai có sự khác nhau về điểm nào đó thì sự khác nhau này luôn là nội dung khó đối với người học, lúc này rất dễ xảy ra hiện tượng chuyển di tiêu cực. Chuyển di tiêu cực chỉ một loại “rào cản” mà kiến thức tiếng mẹ đẻ hoặc kiến thức ngôn ngữ đích mang đến cho người học. Nếu “rào cản” do ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ mang đến thì được gọi là “chuyển di giao ngơn ngữ”, cịn nếu “rào cản” đó đến từ ngơn ngữ đích thì được gọi là “chuyển di nội ngơn ngữ”[2].


Có thể thấy rằng chuyển di tiêu cực trong q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai ảnh hưởng tới [đem rào cản tới] các bình diện của ngơn ngữ, từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp, ngữ dụng và văn hóa. Đối với hiện tượng khách quan này, chúng ta một mặt cần nhìn ra sự tồn tại của nó, thừa nhận ảnh hưởng của nó tới việc thụ đắc ngơn ngữ thứ hai; mặt khác, cần phải nhận thức được rằng, lỗi mà do rào cản này đem đến là khó tránh khỏi, người học ngoại ngữ cần phải thoát khỏi trở ngại tâm lý sợ mắc lỗi, như thế lại có lợi cho người học


ngoại ngữ phát huy tính năng động chủ quan, đạt được hiệu quả học tập cao. Dù gì thì sự xuất hiện của lỗi khơng phải là một việc xấu, trong q trình trải qua sự chuyển di tiêu cực, người học thực tình cũng đã là trải qua quá trình học tập không ngừng nghỉ, chúng ta cũng có thể coi chuyển di tiêu cực như là một loại sách lược học tập, sách lược giao tiếp.

Ví dụ 1: Để luyện tốt khí cơng

anh ấy đã phải chịu bao khó khăn mà khơng hề ốn thán một câu nào.

Với câu mang chỉ tố chỉ mục đích “để” ở trên,
có người học đã dịch sang tiếng Hán


là:

以便

练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。

*

“Để” trong tiếng Việt có thể đứng ở đầu câu hoặc ở đầu phân câu sau, còn “以便” cũng là từ chỉ quan hệ mục đích, chuyển dịch sang tiếng Việt cũng có nghĩa là “để”, nhưng nó chỉ có vị trí duy nhất là đứng ở đầu phân câu sau. Người học không để ý đến sự khác biệt này nên đã sinh ra lỗi trong khi vận dụng. Câu trên cách biểu đạt chính xác nên là:


为了练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。



Ta tiếp tục quan sát các ví dụ dưới đây:
Ví dụ 2: *

为我没带伞,妈妈要来接我。



Ví dụ 3: *

为了想想好久,我睡一个觉到下午。



dụ 4:*


他也说过,大家可以生活在一起是为了缘分,所以我


们要互相帮助,互相尊敬。



Nguyên nhân gây lỗi của các ví dụ trên là do

” và “

为了

” ngồi nghĩa chỉ mục đích ra cịn có thể biểu thị nguyên nhân, người học do trong quá trình sử dụng đã vận dụng kiến thức một cách máy móc, hay nói cách khác là họ đã liên hệ vận dụng những gì đã học được sang một kiến thức mới, do vậy đã xảy ra sự nhầm lẫn. Các câu trên nên biểu đạt như sau:

因为我没带伞,妈妈要来接我。


[4]

因为想想好久,我睡一个觉到下午。



Dịch nghĩa: Vì suy nghĩ quá nhiều nên tôi đã ngủ một giấc đến tận chiều.


他也说过,大家可以生活在一起是因为缘分,所以我


们要互相帮助,互相尊敬。



Dịch nghĩa: Anh ta đã từng nói, mọi người có thể sống được cùng nhau là do duyên phận, cho nên chúng ta phải giúp đỡ nhau, tôn trọng lẫn nhau.


Ta quan sát tiếp ví dụ dưới đây: Ví dụ 5:


*

他很喜欢唱歌直到他妈妈为了他找个辅导老师教他唱



歌。



Vì “为” vừa có thể biểu thị mục đích của động tác hành vi, lại vừa có thể biểu thị đối tượng tiếp

nhận của động tác, nên câu này phải thay “

为了


bằng “

”, cách diễn đạt chính xác nên là:


他很喜欢唱歌直到他妈妈为他找个辅导老


师教他唱歌。



2] Chuyển di tích cực. Tiếng mẹ đẻ mặc dù có khả năng sẽ gây ra trở ngại trong quá trình tiếp thu ngơn ngữ thứ hai, nhưng vẫn có khả năng mang đến tác dụng tích cực. Hiện tượng này được gọi là chuyển di tích cực trong học tập ngơn ngữ. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, trong quá trình học ngơn ngữ thứ hai, trong đó ở giai đoạn đầu của sự phát triển ngôn ngữ, người học sẽ luôn dựa theo các quy tắc ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ. Khi các quy tắc của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ đó hồn tồn giống với quy tắc của ngôn ngữ thứ hai thì người học sẽ sử dụng một cách chính xác ngơn ngữ thứ hai. Tiếp theo đó, người học sẽ dần hình thành một loạt các quy tắc liên quan đến ngôn ngữ thứ hai, những quy tắc này có khả năng là lỗi trong ngơn ngữ thứ hai, nhưng chúng vẫn là những tiêu chí của sự phát triển ngôn ngữ của người học. Tiếp đến, người học sẽ phát hiện ra quy tắc mà mình tự sáng tạo ra có chỗ khơng phù hợp với quy tắc chính thống của ngôn ngữ thứ hai, từ đó người học dần dần loại bỏ những quy tắc khơng chính xác và cuối cùng sẽ học được các quy tắc chuẩn xác nhất. Trong quá trình học kiểu dạng này, ở giai đoạn sơ cấp, khi ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của người học có các quy tắc đồng nhất với ngôn ngữ thứ hai, thì ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ


đem đến tác dụng thúc đẩy việc học ngôn ngữ thứ hai này.


Nói một cách khác thì chuyển di tích cực chỉ một vài hình thức mà trong bối cảnh ngơn ngữ thứ hai, người học vì chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ một cách vô thức đã lợi dụng tiếng mẹ đẻ để biểu đạt, vừa hay kiểu lợi dụng này lại phù hợp với thói quen biểu đạt của ngôn ngữ thứ hai, kết quả là có được những biểu đạt chính xác. Sự chuyển di tích cực ngơn ngữ mẹ đẻ chủ yếu biểu hiện ở hai cấp độ từ và câu.


Ta cùng quan sát một vài ví dụ của sinh viên khi sử dụng từ chỉ mục đích trong tiếng Hán hiện đại vào viết bài dịch.


Ví dụ 6: Để bạn đọc hiểu rõ sự việc, chúng tôi xin cung cấp thêm một số tư liệu.


Dịch


câu

:“为了让读者把事件弄清,我们就加



给一些新信息。”




Từ “để” trong tiếng Việt có thể dịch sang tiếng Hán là “为了”, trong câu trên được dịch thành “为了” là rất hợp lý, cả hai từ đều dùng để biểu thị mục đích và đều có thể đứng ở đầu câu, ngay trước phân câu biểu thị mục đích. Điều này thuộc về sự chuyển di tích cực, trong đó giữa ngơn ngữ thứ nhất và ngơn ngữ thứ hai có một vài điểm ngơn ngữ khơng có sự khác biệt, người học khi nắm bắt những từ ngữ kiểu như thế sẽ không gặp vấn đề khó khăn gì.


Ví dụ 7: Để đứng vững được trên con đường sự nghiệp, tơi đã đi khắp nơi tìm kiếm những đột phá mới.


Dịch câu:


为了在事业上站住脚,我四处寻找新的突破点。



Một trong những kiểu kết cấu của từ “để” biểu thị mục đích là theo sau nó là cụm động từ hoặc một phân câu nhỏ, trong tiếng Hán cũng vậy, theo sau “为了” cũng có thể là cụm động từ hoặc một kết cấu chủ vị, người học có thể dựa vào điểm giống nhau này để vận dụng vào học tập.

[5]

học, họ sẽ cố gắng không sử dụng các quy tắc này. Đây chính là hiện tượng tránh né trong q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai. Tránh né và chuyển di tiêu cực đều có điểm chung là được sản sinh trên cơ sở giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích có sự khác biệt. Nhưng ở “tránh né”, người học tránh sử dụng những quy tắc tương đồng, bao gồm cả việc không làm theo quy tắc của ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ, cịn ở “chuyển di tiêu cực”, người học có sử dụng nhưng lại làm theo những quy tắc của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, do đó sinh ra lỗi. Từ đó, ta có thể thấy rằng, kiến thức về ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ, mức độ nắm kiến thức ngôn ngữ đích và thái độ của người học với văn hóa nước nhà cũng như văn hóa của quốc gia sử dụng ngơn ngữ đích đều có ảnh hưởng tới sự sản sinh của hành vi “tránh né”. Ta cùng quan sát một số ví dụ nằm trong nguồn ngữ liệu chúng tôi đã thu thập được:


Ví dụ 8:


因为我生病,妈妈请了几天假一直在我的身


边照顾我。



Dịch nghĩa:Vì tơi bị ốm, mẹ đã xin nghỉ làm mấy ngày ở bên cạnh chăm sóc tơi.


Trong ví dụ trên, nếu người học sử dụng liên
từ “

为了

”để nối giữa các phân câu thì câu văn sẽ có được lối diễn đạt phù hợp với văn phong viết hơn:

我生病了,为了能在我身边照顾我,妈妈请了几天假

.

Dịch nghĩa:Tôi bị ốm, để có thể ở bên cạnh chăm sóc tơi, mẹ đã xin nghỉ làm mấy ngày. 4] Lạm dụng. Trong quá trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai, sẽ có hiện tượng người học lạm dụng sử dụng một số hình thức quy tắc ngơn ngữ, điều này có thể là do họ chưa có hiểu biết sâu xa về quy tắc của ngơn ngữ đích. Ví dụ 9: Tơi đã giấu chìa khóa két sắt đi để khỏi bị trộm lấy mất.


Có người học đã dịch câu này sang tiếng Hán là:


我把保险柜的钥匙藏起来,为了免得被人偷去。

*

Câu trên có chứa chỉ tố chỉ mục đích “để” nhưng lại kết hợp với “khỏi” tạo thành ý nghĩa mong muốn khơng xảy ra việc nào đó, trong tiếng Hán thì ta chỉ cần dùng một từ nối chỉ quan hệ mục đích là được, ví dụ như là:


以免、免得,và cách biểu đạt chính xác của câu này là:


我把保险柜的钥匙藏起来,免得被人偷去。



Trong ví dụ trên, chỉ cần dùng “

免得

là đã đủ
biểu thị quan hệ mục đích rồi nhưng người học đã lạm dụng dùng cả hai quan hệ từ chỉ

mục đích là为了và

.

Qua khảo sát cho thấy, lạm dụng là một biểu hiện của chuyển di ngôn ngữ xuất hiện nhiều ở đối tượng người học có trình độ cao hơn, vì theo thời gian, người học được tiếp cận nhiều kiến thức mới hơn, khó hơn, lúc này, người học rất dễ áp dụng những kiến thức chưa đầy đủ, vẹn tồn [vì vừa được truyền thụ] của nội dung ngơn ngữ đích đã được tiếp thu vào nội dung kiến thức mới mẻ, từ đó gây ra lỗi. Ví dụ khác nằm trong nguồn ngữ liệu mà chúng tơi đã thu thập được như sau:


Ví dụ 10: *

学了三年汉语以后我来中国为了留学。



Dịch nghĩa: Sau 3 năm học tiếng Hán, tôi đến Trung Quốc để du học.


Từ ví dụ trên cho ta thấy, bản thân cụm “来中国留学” thông qua kết cấu liên động đã đủ nói lên quan hệ mục đích, không cần phải dùng thêm “为了” để chỉ quan hệ mục đích nữa. Ví dụ 11:


*

我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视机



为了看接连换电视台但没找到好玩儿的东西看。




Trong ví dụ trên xuất hiện vài động tác xảy ra
theo tuần tự trước sau là “

打开电视机

”,

看电视

”, “

换台

” , đây là mối quan hệ liên tiếp nên giữa các động tác không thể tồn tại quan

hệ mục đích, vì vậy cần bỏ “

” đi, và câu trên có thể sửa lại là:

我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视看


节目,然后连接换电视台但没找到好玩儿的东西看。



ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

[6]

1] Tận dụng hợp lý sự chuyển di tích cực. Chúng ta có thể tận dụng những điểm tương đồng giữa hai loại ngôn ngữ [Tiếng Việt và tiếng Hán], tích cực phát huy những ảnh hưởng tốt của ngôn ngữ thứ nhất đối với ngôn ngữ thứ hai. Như vậy, sẽ giúp người học có hứng thú hơn và hiệu quả học tập ngôn ngữ thứ hai cũng sẽ được nâng cao. Do vậy trên thực tế là không thể nhấn mạnh việc từ bỏ tư duy bằng tiếng mẹ đẻ trong khi học ngơn ngữ thứ hai, bởi vì người học đều học ngoại ngữ từ nền tảng ban đầu là tiếng mẹ đẻ. Vì thế trong quá trình giảng dạy và học tập cần có thái độ nhìn nhận đúng đắn về sự ảnh hưởng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Trong q trình giảng dạy có thể dạy theo phương thức dạy đối chiếu, tức là tìm ra điểm tương đồng giữa hai nội dung kiến thức để dạy. Ví dụ, khi giảng


về “

为了

” có thể đối chiếu với “để” , “nhằm”,

tập trung vào điểm giống nhau như vị trí của chúng trong câu hay thành phần theo sau của chúng để vận dụng vào giao tiếp bởi vì những điểm giống nhau sẽ thường là nội dung dễ tiếp thu hơn.


2] Tích cực cố gắng khắc phục sự chuyển di tiêu cực. Đối với sự chuyển di tiêu cực, trong quá trình dạy học cần chú trọng nhấn mạnh để người học nhận biết được chúng, người dạy học có thể thơng qua “phân tích đối chiếu”, “phân tích lỗi” để so sánh ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích, dự đốn những hiện tượng chuyển di tiêu cực có thể xảy ra khi người học học tiếng Hán, đồng thời thông qua liên tục luyện tập sẽ đem đến cho người học sự nhạy bén với những điểm khác nhau giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích. Trong q trình giảng dạy nên chú trọng đến sự đa dạng của loại hình bài tập luyện tập. Các loại bài tập có thể sử dụng như là dạng bài tập thay thế, trong đó tập trung vào những từ gần nghĩa [ví dụ như “为” và “为了”] hoặc dạng bài tập dịch với yêu cầu bắt buộc sử dụng nội dung kiến thức cụ thể [ví dụ như yêu cầu dùng “để”, “để mà”, “nhằm”...]. Ngoài ra cũng có thể áp dụng bài tập phán đoán câu đúng sai nhằm mục đích cho người học tự


nhận biết lỗi mà mình có thể dễ mắc phải. Ta xem hai ví dụ dưới đây:


Ví dụ 12: *

为了钱,他变得这么坏。



Cách diễn đạt chính xác nên là:


因为钱,他变得这么坏。



Ví dụ 13: *

以便开会而开会。



Cách diễn đạt chính xác nên là:


为了开会而开会。



KẾT LUẬN


Sự chuyển di ngôn ngữ trong quá trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai luôn là vấn đề đáng được quan tâm bởi lẽ nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận dụng những kiến thức đã học vào giao tiếp, nó đem đến cho cả người dạy và người học ngôn ngữ thứ hai ngồi ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ cả thuận lợi cũng như khó khăn. Đặc biệt với hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Hán, giữa chúng có rất nhiều nét tương đồng cũng như sự khác biệt, vì thế sự chuyển di ngôn ngữ ở đây đóng vai trị rất quan trọng, người Việt Nam khi dạy tiếng Hán cần nắm bắt những kiến thức về chuyển di nhằm tận dụng nó cũng như giảm thiểu bớt những trở ngại mà nó đem đến để cuối cùng đạt được mục đích chung nhất là có những giờ giảng thực sự là hiệu quả.


TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.


周静(2007)《对外汉语教学与母语习得原则》,天中学刊。


2.夏洋(2005)《第二语言习得过程中语言迁移现象研究》,黑龙江大学硕士论文。


3.


温晓虹(2012)《汉语作为第二语言的习得与教学》,北京大学出版社。


4. Diệp Quang Ban [2012], Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam.


5.白丽梅,黄友之(2011)《二语习得中的语法教学理论述评》,基础英语教育,第13卷第一期。


6.



段轶娜(2005)《“为了”的用法分析》,常熟理工学院学报。


7.王永娜(2004)《

[7]

SUMMARY


DISCUSSION ABOUT LINGUISTIC TRANSFER PHENOMENON IN THE PROCESS OF SECOND LANGUAGE ACQUIREMENT OF VIETNAMESE STUDENTS WHEN STUDYING CHINESE AND TEACHING STRATE


Do Thi Thuy Ha*


School of Foreign Languages - TNU


Reseach on linguistic transfer is one crucial part in studying second language acquirement. Many linguists soon realized that learning and mastering one language would have a supplementary effect on acquiring other languages. In that process, leraners would take advantage of all knowledge about the first language to develope the target language [the second language]. It means that linguistic transfer is unavoidable. The process of acquiring Chinese of Vietnamese people is not an exception and the linguistic transfer plays in important role in this process. However, linguistic transfer also has its own advantages and drawbacks; therefore, in teaching strate, it cannot be underestimated. The important thing with a teacher is to understand how to apply it, innovating teaching methods and bringing effective learning hours.


Keywords: language acquirement, linguistic transfer, Chinese, Vietnamese, teaching method


Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 16/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018




*

[8]

Video liên quan

Chủ Đề