A nghĩa là gì trong tiếng Việt

Thông tin thuật ngữ á tiếng Tiếng Việt

Có nghiên cứu sâu vào tiếng Việt mới thấy Tiếng Việt phản ánh rõ hơn hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Ngôn từ Việt Nam rất giàu chất biểu cảm – sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.

Theo loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng lớn những từ song tiết, cho nên trong thực tế ngôn từ Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều có cấu trúc 2 vế đối ứng [trèo cao/ngã đau; ăn vóc/ học hay; một quả dâu da/bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe…].

Tiếng ViệtSửa đổi

Wikipedia có bài viết về:

a



a U+0061, a

LATIN SMALL LETTER A

`
[U+0060]
Basic Latin b
[U+0062]

Cách phát âmSửa đổi

IPA theo giọng Hà Nội Huế Sài Gòn Vinh Thanh Chương Hà Tĩnh
˧˧˧˥˧˧
˧˥˧˥˧

Phiên âm Hán–ViệtSửa đổi

Các chữ Hán có phiên âm thành “a”

  • 婀: ả, a
  • 錏: á, a
  • 錒: a
  • 锕: a
  • 亚: á, a
  • 亜: á, a
  • 亞: á, a
  • 丫: nha, giác, a
  • 鈳: a
  • 疴: mạch, kha, a
  • 钶: a
  • 妸: a
  • 娿: ả, a
  • 呀: nha, a
  • 嗄: hạ, sá, chới, a, sạ
  • 啊: á, a
  • 哑: nha, ách, á, a, nhạ
  • 婐: ỏa, a
  • 铔: á, a
  • 屙: a
  • 啞: nha, ố, ách, á, a, nhạ
  • 日: nhựt, nhật, a
  • 兮: hề, a
  • 曰: viết, a
  • 呵: kha, a, ha
  • 阿: ốc, á, a
  • 痾: kha, a

Phồn thểSửa đổi

  • 屙: a
  • 婀: a
  • 疴: kha, a
  • 阿: á, a
  • 痾: a

Chữ NômSửa đổi

[trợ giúp hiển thị và nhập chữ Nôm]

Cách viết từ này trong chữ Nôm

  • 婀: a, ả
  • 嗄: sá, sạ, hạ, a
  • 桠: a, nha
  • 鴉: ác, a, nha
  • 锕: a
  • 丫: a, nha
  • 啊: ạ, a, à, á
  • 椏: a, nha, á
  • 阿: ốc, a, à
  • 鸦: a, nha
  • 鈳: a
  • 錒: a
  • 呵: khà, khá, kha, hả, a, ha, hà, há
  • 疴: khú, kha, khờ, a
  • 鵶: ác, a, ó, nha
  • 屙: a
  • 妸: gả, gạ, a, gã, gá, ả
  • 痾: a
  • 亜: a, á
  • 娿: a, ả
  • 亞: a, á

Từ tương tựSửa đổi

Các từ có cách viết hoặc gốc từ tương tự

  • A
  • á
  • à

Danh từSửa đổi

a

a

  1. Con chữ thứ nhất của bảng chữ cái chữ quốc ngữ [dạng viết thường]; dùng để thể hiện
    1. nguyên âm "a".
    2. nguyên âm "a" ngắn trong "au", "ay".
    3. nguyên âm "e" ngắn trong "ach", "anh".
    4. yếu tố thứ hai của một nguyên âm đôi trong "ia" và "ya", ở "uya", "ưa".
  2. Nông cụ gồm hai lưỡi cắt tra vào cán dài, để cắt cỏ, rạ hay gặt lúa. Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái [tục ngữ].
  3. Đơn vị đo diện tích ruộng đất, bằng mét vuông.

Động từSửa đổi

a

  1. Sấn vào, xông vào. A vào giật cho được.

Thán từSửa đổi

a

  1. Từ biểu thị ý hỏi, hơi lấy làm lạ hoặc hơi mỉa mai [dùng ở cuối câu]. Cứ để mãi thế này a?
  2. Tiếng thốt ra biểu lộ sự vui mừng, ngạc nhiên hoặc sực nhớ điều gì. A! Mẹ đã về! A! Còn việc này nữa.

Tham khảoSửa đổi

  • Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí [chi tiết]
  • Thông tin chữ Hán và chữ Nôm dựa theo cơ sở dữ liệu của phần mềm WinVNKey, đóng góp bởi học giả Lê Sơn Thanh; đã được các tác giả đồng ý đưa vào đây. [chi tiết]

Xem thêmSửa đổi

  • ͣ [dạng ký tự kết hợp]

Tiếng ViệtSửa đổi

à U+00E0, à

LATIN SMALL LETTER A WITH GRAVE

Thành phần:a [U+0061] + ◌̀ [U+0300]
ß
[U+00DF]
Latin-1 Supplement á
[U+00E1]

Cách phát âmSửa đổi

IPA theo giọng Hà Nội Huế Sài Gòn Vinh Thanh Chương Hà Tĩnh
a̤ː˨˩˧˧˨˩
˧˧

Chữ NômSửa đổi

[trợ giúp hiển thị và nhập chữ Nôm]

Cách viết từ này trong chữ Nôm

  • 啊: ạ, a, à, á
  • 阿: ốc, a, à

Từ tương tựSửa đổi

Các từ có cách viết hoặc gốc từ tương tự

  • á

Động từSửa đổi

à

  1. [Phương ngữ] . Ùa tới, sấn tới ồ ạt cùng một lúc. Lũ trẻ à vào vườn.

Thán từSửa đổi

  1. [khẩu ngữ; dùng ở cuối câu] Từ biểu thị ý hỏi thân mật để rõ thêm về điều gì đó. Mới đó mà quên rồi à? Anh đi à?
  2. [khẩu ngữ] Tiếng thốt ra biểu lộ sự ngạc nhiên hoặc sực nhớ ra điều gì. À, đẹp nhỉ! À quên!

DịchSửa đổi

Xem thêmSửa đổi

  • À

Tham khảoSửa đổi

  • Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí [chi tiết]
  • Thông tin chữ Hán và chữ Nôm dựa theo cơ sở dữ liệu của phần mềm WinVNKey, đóng góp bởi học giả Lê Sơn Thanh; đã được các tác giả đồng ý đưa vào đây. [chi tiết]

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Trước thời Pháp thuộc
    • 1.2 Thời Pháp thuộc
    • 1.3 Sau năm 1945
  • 2 Phân bố
  • 3 Phương ngữ
  • 4 Ngữ âm
    • 4.1 Nguyên âm
    • 4.2 Phụ âm
    • 4.3 Thanh điệu
  • 5 Ngữ pháp
  • 6 Từ vựng
    • 6.1 Từ thuần Việt
    • 6.2 Từ Hán Việt
    • 6.3 Từ có nguồn gốc Ấn–Âu
    • 6.4 Từ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số
    • 6.5 Từ hỗn chủng
  • 7 Chữ viết
    • 7.1 Thư pháp
    • 7.2 Bộ gõ tiếng Việt và giao tiếp tiếng Việt qua mạng
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài

Lịch sử

Từ vựng tiếng Thái, tiếng Việt, tiếng Khmer, tiếng Chăm, tiếng Lào, tiếng Môn, tiếng Pali,... trong sách của John Crawfurd xuất bản năm 1828.

Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với các ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao hơn, hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ VI [thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam] với 3 thanh điệu và phát triển thêm vào khoảng thế kỷ XII [nhà Lý] với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô thanh với hữu thanh sang tách biệt.

Ví dụ[9] của A.G. Haudricourt.

Đầu Công nguyên
[vô thanh điệu] Thế kỷ VI
[3 thanh] Thế kỷ XII
[6 thanh] Ngày nay
pa pa pa ba
sla, hla hla la la
ba ba
la la
pas, pah pả bả
slas, hlah hlà lả lả
bas, bah
las, lah
pax, paʔ
slax, hlaʔ hlá
bax, baʔ pạ bạ
lax, laʔ lạ lạ

Trước thời Pháp thuộc

Xem thêm: Văn ngôn và Từ Hán Việt

Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập nước. Giai đoạn từ đầu Công nguyên, tiếng Việt có những âm không có trong tiếng Trung. Từ khi tiếng Trung có ảnh hưởng tới Việt Nam thông qua các con đường và bao gồm các giai đoạn khác nhau, tiếng Việt bắt đầu có những âm vay mượn từ tiếng Trung. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến trong cuốn sách Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành 2 giai đoạn chính:

  • Giai đoạn từ đầu Công nguyên đến đầu thời nhà Đường [đầu thế kỷ VIII], từ vựng tiếng Hán ảnh hưởng tới tiếng Việt trong giai đoạn này gọi là từ Hán cổ;
  • Giai đoạn từ thời nhà Đường [thế kỷ VIII – thế kỷ X] trở về sau, từ vựng tiếng Hán ảnh hưởng tới tiếng Việt trong giai đoạn này gọi là từ Hán Việt.

Từ Hán cổ và từ Hán Việt gọi chung là từ gốc Hán.

1 số từ ngữ Hán cổ có thể kể đến như "đầu", "gan", "ghế", "ông", "bà", "cô", "chè", "ngà", "chén", "chém", "chìm", "buồng", "buồn", "buồm", "mùi", "mùa"... Từ Hán cổ là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt từ lâu hơn, đã đồng hoá mạnh hơn, nên những từ này hiện nay là từ thông thường trong hoạt động xã hội đối với người Việt.

Hệ thống từ Hán Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt [tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác]. Hiện nay có 1945 chữ Hán thông dụng trong tiếng Nhật, cũng có khoảng 2000 từ Hán–Hàn thông dụng]. Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu tố Hán–Việt. Như là "chủ", "ở", "tâm", "minh", "đức", "thiên", "tự do",... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như "nhiệt náo" thành "náo nhiệt", "thích phóng" thành "phóng thích", "đảm bảo" thành "bảo đảm"...; hoặc rút gọn như "thừa trần" thành "trần" [trong trần nhà], "lạc hoa sinh" thành "lạc" [trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng]...; hoặc đọc chệch đi như sáp nhập [chữ Hán: 插入] thành sát nhập, thống kế [統計] thành thống kê, để kháng [抵抗] thành đề kháng, chúng cư [眾居] thành chung cư, bảo cô [保辜] thành báo cô, vãng cảnh [往景] thành vãn cảnh [晚景], khuyến mãi [勸買] thành khuyến mại [勸賣], vân vân; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như "phương phi" trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", "bồi hồi" trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động"... Mặt khác, người Trung Quốc gọi là Thái Sơn, Hoàng Hà, cổ thụ... thì người Việt lại đọc là núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, cây cổ thụ [mặc dù sơn = núi, hà = sông, thụ = cây]... Do tính quy ước của ngôn ngữ mà phần nào đó các cách đọc sai khác với tiếng Hán vẫn có ai đó chấp nhận và sử dụng trong khi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay cũng như các cơ quan, các cấp quản lý, tổ chức xã hội – nghề nghiệp lẫn các nhà khoa học Việt Nam có thể chưa tìm được tiếng nói chung trong việc chuẩn hoá cách sử dụng tên riêng và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài.[10] Bên cạnh đó, có những từ có thể đã dùng sai như "quan ngại" dùng và hiểu như "lo ngại", "vấn nạn" hiểu là "vấn đề nan giải", "vô hình trung" thì viết thành "vô hình trung" hay "vô hình dung", "việt dã" là "chạy dài"; "trứ tác" dùng như "sáng tác",[11] "phong thanh" dùng như "phong phanh", "bàng quan" dùng như "bàng quang", "đào ngũ" dùng là "đảo ngũ", "tham quan" thành "thăm quan", "xán lạn" thành "sáng lạng"…

Theo ước lượng của các nhà nghiên cứu, từ Hán Việt chiếm khoảng trên dưới 70% vốn từ trong phong cách chính luận, khoa học [Maspéro thì cho rằng, chúng chiếm hơn 60% lượng từ tiếng Việt].[10][11] Tác giả Lê Nguyễn Lưu trong cuốn sách Từ chữ Hán đến chữ Nôm thì cho rằng về lĩnh vực chuyên môn và khoa học tỉ lệ này có thể lên đến 80% nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn 12,8%, kịch nói rút xuống còn 8,9% và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp hơn nữa.[12]

Các từ và từ tố Hán Việt tạo ra các từ ngữ mới cho tiếng Việt như sĩ diện, phi công, bao gồm, sống động, sinh đẻ, vân vân. Trong khi tiếng Việt gọi là phát thanh [發聲] thì tiếng Hán lại gọi là 廣播 quảng bá; tiếng Việt gọi là truyền hình [傳形] thì tiếng Hán gọi là 電視 điện thị; tiếng Việt gọi là thành phố [城鋪], thị xã [市社] thì tiếng Hán gọi là 市 thị. Tiếng Việt đã lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình.

Kể từ đầu thế kỷ thứ XI, Nho học phát triển, việc học cổ văn gia tăng, tầng lớp trí thức mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng cổ văn phát triển với các áng văn thư ví dụ như Nam quốc sơn hà bên sông Như Nguyệt [sông Cầu].

Cùng thời gian này, ai đó xây riêng 1 hệ thống chữ viết cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết phát triển, đó là chữ Nôm. Để tiện cho việc học chữ Hán và chữ Nôm của người Việt, Ngô Thì Nhậm [1746–1803] đã biên soạn cuốn sách Tam thiên tự giải âm [còn gọi là Tam thiên tự, Tự học toản yếu]. Tam thiên tự giải âm chỉ lược dạy 3000 chữ Hán, Nôm thông thường, đáp ứng nhu cầu cần thiết, nhớ chữ, nhớ nghĩa từng chữ, mỗi câu 4 chữ. Hiệp vần cũng có điểm đặc biệt, tức là vần lưng [yêu vận, vần giữa câu]. Tiếng thứ 4 câu đầu hiệp với tiếng thứ hai câu dưới rồi cứ thế mãi đến 3000 chữ, 750 câu. Ví dụ: Thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – còn, tử – con, tôn – cháu, lục – sáu, tam – ba, gia – nhà, quốc – nước, tiền – trước, hậu – sau, ngưu – trâu, mã – ngựa, cự – cựa, nha – răng, vô – chăng, hữu – có, khuyển – chó, dương – dê,... Trần Văn Giáp đánh giá đây tuy chỉ là quyển sách dạy học vỡ lòng về chữ Hán như đã nêu ở trên nhưng thực ra cũng có thể coi nó chính là sách Từ điển Hán Việt thông thường và phổ biến ở cuối thế kỷ XVIII, cùng thời với các sách Chỉ nam ngọc âm, Chỉ nam bị loại và xuất hiện trước các sách Nhật dụng thường đàm, Thiên tự văn và Đại Nam quốc ngữ.[13]

Thời Pháp thuộc

Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, tiếng Pháp dần thay thế vị trí của cổ văn, trở thành ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ [chữ Latinh tiếng Việt], do một số nhà truyền giáo châu Âu tạo ra, đặc biệt là hai tu sĩ người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, với mục đích ban đầu là dùng ký tự Latinh ghi lại tiếng Việt, được chính quyền Pháp thuộc bảo hộ sử dụng nhằm thay thế chữ Hán với chữ Nôm để đồng văn tự với tiếng Pháp, dần dần sử dụng phổ biến trong xã hội cùng tiếng Pháp.

Gia Định báo là tờ báo đầu tiên mà phát hành bằng chữ Quốc ngữ tại Nam Kỳ vào năm 1865, đặt nền móng cho sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính của tiếng Việt sau này.

Mặt khác, những khái niệm chính trị xã hội, kỹ thuật mới dẫn đến việc nhập các thuật ngữ, từ ngữ mới. Có 2 xu hướng về cách thức nhập thuật ngữ là:

  1. Nhập từ phiên âm của ngôn ngữ phương Tây, chủ yếu là từ tiếng Pháp và có thể sử dụng bởi tầng lớp thị dân có thể vốn không thạo chữ Hán [14] như ghi đông, phanh, lốp, găng, pê đan, phuốc tăng [nay gọi là phuộc],...
  2. Nhập qua âm Hán Việt của chữ Hán từ tiếng Trung và tiếng Nhật [từ Hán-Việt gốc Nhật] như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính, câu lạc bộ,... Trong giới văn hoa thì các tên riêng phương tây mà dùng là từ Hán Việt như Á Căn Đình [Argentina], Nã Phá Luân [Napoleon],... hay Tòa Bạch Ốc [Nhà Trắng],...

Sau năm 1945

Tiếng Việt thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và cổ văn, trở thành ngôn ngữ làm việc cấp quốc gia duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, sự phát triển tiếng Việt trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam diễn ra có khác nhau, chủ yếu ở sử dụng từ Hán-Việt và phiên âm tên trong tiếng nước ngoài.

Tại miền Bắc có xu hướng chuyển sang sử dụng từ thuần Việt thay thế từ Hán Việt cùng nghĩa còn ở miền Nam thì vẫn giữ nguyên việc sử dụng từ Hán Việt như thời trước 1945. Ví dụ như miền Nam vẫn giữ tên "Ngân hàng Quốc gia" trong khi miền Bắc đổi thành "Ngân hàng Nhà nước" [1960], miền Nam gọi là "phi trường" thì miền Bắc gọi là "sân bay", miền Nam gọi là "Ngũ Giác Đài" thì miền Bắc gọi là "Lầu Năm Góc", miền Nam gọi là "Đệ nhứt thế chiến" thì miền Bắc gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất", miền Nam gọi là "hỏa tiễn" thì miền Bắc gọi là "tên lửa", miền Nam gọi là "thủy quân lục chiến" còn miền Bắc đổi thành "lính thủy đánh bộ",... Ngược lại ở miền Bắc lại dùng một số danh từ bắt nguồn từ tiếng Hán như "tham quan", "sự cố", "nhất trí", "đăng ký", "đột xuất", "vô tư",... thì miền Nam lại dùng những chữ "thăm viếng", "trở ngại/trục trặc", "đồng lòng", "ghi tên", "bất ngờ", "thoải mái",...

Việc phiên âm tên tiếng nước ngoài thì ở miền Nam vẫn theo cách trước 1945 là dùng tên theo từ Hán Việt, như Băng đảo [Iceland], Úc Đại Lợi [Australia], Hung Gia Lợi [Hungary], Ba Tây [Brazil],... Tại miền Bắc thì chuyển sang phiên âm trực tiếp thành Ai-xơ-len, Ô-xtrây-li-a, Hung-ga-ri,... và trừ ra các tên Hán Việt của một số đối tượng phổ biến, ví dụ như "Pháp", "Đức", "Anh", "Nga",... Cá biệt [có thể là duy nhất] 1 tên tiếng Trung là Zhuang [người Tráng] "phiên âm trực tiếp" thành Choang trong tên gọi chính thức "Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây".[15][note 1]

Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ Bắc-Nam đã kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến hơn của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc góp phần chuẩn hóa tiếng Việt về chính tả và âm điệu. Từ Hán Việt và từ thuần Việt được người Việt sử dụng song song tùy thuộc ngữ cảnh hay văn phong. Sự di cư để học tập và làm việc giữa các vùng miền giúp mọi người ở Việt Nam được tiếp xúc và hiểu nhiều hơn với các phương ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên với sự tiến triển của internet và toàn cầu hóa, ảnh hưởng của tiếng Anh ngày càng lớn, người Việt hiện nay thường viết từ ngoại lai với xu hướng viết theo tiếng Anh [như video] thay vì viết theo âm đọc của tiếng Việt [vi-đê-ô] vì cùng dùng chữ Latinh, và đang có thói quen dùng từ vựng hay tên dịch sang tiếng Anh nhiều hơn, có khi lấn át các từ vựng hay tên tiếng Việt sẵn có hoặc đã dịch có nghĩa [ví dụ như manga Kimetsu no Yaiba đã được phát hành dưới tên tiếng Việt là "Thanh gươm diệt quỷ" nhưng báo chí Việt lại dùng tên tiếng Anh "Demon Slayer" khi viết bài[16]]. Những người làm việc ở mảng báo chí và phương tiện truyền thông đôi khi đưa tên riêng nước ngoài đưa vào tiếng Việt lại thiếu tìm hiểu và chọn lọc [phát âm sai dựa theo âm tiếng Anh thay vì từ âm của ngôn ngữ gốc, dịch trung gian tên riêng qua tiếng Anh hoặc tiếng Trung], khiến mọi người theo dõi cũng dùng sai theo, trải qua một thời gian dài thì "sai nhiều thành quen" nên rất khó sửa lại đúng tương ứng với ngôn ngữ gốc được. Ví dụ: truyền thông Việt Nam hay dùng nguồn tin tiếng Anh thay vì tiếng Nhật, làm cho tên người Nhật Bản vốn theo thứ tự "họ trước tên sau" trong tiếng Nhật lại bị viết đảo ngược thành "tên trước họ sau" vào trong tiếng Việt [mặc dù không có luật bắt buộc đảo ngược họ tên], khiến thủ tướng Suga Yoshihide bị viết và gọi ngược thành "Yoshihide Suga"[17]; diễn viên Dilraba Dilmurat hay bị gọi là "Địch Lệ Nhiệt Ba" dù cô là người Uyghur, tên của cô là chuẩn tiếng Uyghur không thuộc vùng văn hóa Đông Á [nghĩa là vốn không thể viết bằng chữ Hán], nhưng truyền thông Việt lại dùng tên theo âm Hán-Việt của chữ Hán qua âm Quan thoại mà người Trung Quốc phiên âm tên cô; huấn luyện viên Park Hang-seo khi mới được bổ nhiệm huấn luyện tuyển Việt Nam, hay bị truyền thông Việt đọc tên là "Pác Hang Xeo"[18][19], phải có bài đính chính và mất một thời gian thì cách đọc mới được sửa lại thành "Pắc Hang-so" hay "Pắc Hang-sơ" cho đúng âm tiếng Hàn[19].

Video liên quan

Chủ Đề