Bộ máy quản lý nhà nước về dân tộc

Từ khóa liên quan số lượng

Câu hỏi ngày hỏi

Ngày hỏi:13/01/2017

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc được quy định thế nào? Chào các anh, chị trong Ban biên tập Thư Ký Luật. Tôi đang tìm hiểu những quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước về công tác dân tộc, trong quá trình nghiên cứu có một vài nội dung tôi chưa rõ lắm. Vì vậy, tôi có một thắc mắc mong nhận được sự giải đáp từ phía anh, chị trong Ban biên tập. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc được quy định thế nào? Văn bản nào quy định điều này? Mong nhận được câu trả lời từ Ban biên tập. Tôi xin chân thành cám ơn Ban biên tập Thư Ký Luật. Khánh Nhung [nhung***@gmail.com]

Nội dung này được Ban biên tập Thư Ký Luật tư vấn như sau:

2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về công tác dân tộc; xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc, chính sách đặc thù, các chương trình, dự án, đề án phát triển vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; tiêu chí phân định vùng dân tộc theo trình độ phát triển, tiêu chí xác định thành phần dân tộc, tiêu chí về chuẩn đói nghèo đối với vùng dân tộc thiểu số; xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.

3. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc từ Trung ương đến cơ sở; thực hiện phân công, phân cấp có hiệu quả trong lĩnh vực công tác dân tộc.

4. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số.

5. Kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách, chương trình, dự án ở vùng dân tộc thiểu số; việc chấp hành pháp luật về công tác dân tộc, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác dân tộc theo quy định của pháp luật.

6. Tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước bằng nhiều biện pháp, hình thức để đồng bào các dân tộc hiểu rõ và chủ động tham gia vào quá trình thực hiện.

Tuyên truyền về truyền thống đoàn kết của các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tổ chức tốt các phong trào tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong cộng đồng. Tổ chức hoạt động kết nghĩa giữa các địa phương nhằm tương trợ phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết khó khăn trong cuộc sống.

7. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị và cán bộ trong hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc.

8. Xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về công tác dân tộc.

9. Thẩm định các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.

10. Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn tình hình công tác dân tộc, chiến lược công tác dân tộc, chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc.

11. Hợp tác quốc tế về công tác dân tộc, phối hợp với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc; khuyến khích việc giúp đỡ, hỗ trợ đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn thực hiện tốt công tác dân tộc và chính sách dân tộc theo quy định của pháp luật.

Trên đây là nội dung tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Để hiểu rõ chi tiết hơn về điều này bạn nên tham khảo thêm tại Nghị định 05/2011/NĐ-CP.

Trân trọng!


Trong những năm qua, quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam tuy đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng khoảng cách thu nhập, giàu nghèo trong cộng đồng dân tộc, giữa vùng dân tộc thiểu số vẫn còn chênh lệch so với các vùng khác. Vì vậy, tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thực hiện công bằng xã hội đối với đồng bào người dân tộc thiểu số là nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới.

Ảnh minh họa

Quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam thời gian qua

Công bằng xã hội và hòa nhập xã hội là hai mục tiêu mà Nhà nước ta đặt ra và hướng đến năm 2035 trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước của Chính phủ và chính quyền địa phương ở Việt Nam đã và đang được xây dựng, triển khai để góp phần giải quyết hài hòa các lợi ích, hướng đến và hiện thực hóa các giá trị cùng được chia sẻ để mang đến hạnh phúc cho Nhân dân, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. 

Từ quan điểm chỉ đạo “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”, Đảng và Nhà nước ta xác định nguyên tắc cơ bản để đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong quản lý nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam là huy động sự tham gia rộng rãi của các chủ thể vào toàn bộ quá trình hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách công; quản lý bằng pháp luật; công khai, minh bạch; thích ứng và linh hoạt; định hướng và đồng thuận; công bằng và bình đẳng; hiệu lực và hiệu quả; trách nhiệm giải trình. Hiện nay, chúng ta đã xây dựng và thực hiện 13 nhóm chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, bao gồm: 1] Chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực; 2] Chính sách đầu tư phát triển bền vững; 3] Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo; 4] Chính sách cán bộ đối với đồng bào người dân tộc thiểu số; 5] Chính sách đối với người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; 6] Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa; 7] Chính sách phát triển thể dục, thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số; 8] Chính sách phát triển du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số; 9] Chính sách y tế, dân số; 10] Chính sách thông tin - truyền thông; 11] Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý; 12] Chính sách bảo vệ môi trường, sinh thái; 13] Chính sách quốc phòng, an ninh.

Để giải quyết hài hòa các lợi ích, thực hiện công bằng và bình đẳng về cơ hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước đã, đang và sẽ tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa đến việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kết hợp nâng cao dân sinh, dân trí cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định sẽ tiếp tục ban hành các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức tình nguyện, các hội và tổ chức cộng đồng ở địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số tham gia nhiều hơn vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo dựng niềm tin cho các chủ thể này đóng góp vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách quản lý nhà nước đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Tuy nhiên, việc thực thi chính sách quản lý nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn một số hạn chế, bất cập, nổi lên là: nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đã được hình thành nhưng chậm phát triển, canh tác còn lạc hậu, lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chất lượng sản phẩm thấp; chưa kiểm soát được hết tình trạng di dân tự do. Đầu tư kết cấu hạ tầng ở một số vùng chưa được quan tâm đúng mức. Năm 2020, tại 5.468 xã thuộc vùng dân tộc thiểu số, có 7.712 người già cô đơn không nơi nương tựa[1]. Tình trạng du canh, du cư, di cư tự do vẫn diễn ra ở một số nơi. Một số hộ thiếu đất sản xuất, thiếu đất ở, nước sinh hoạt. Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất, có xu hướng lùi sâu vào vùng sâu, vùng xa do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Tỷ lệ đói nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số hiện còn cao so với bình quân chung của cả nước. Năm 2018, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 52,7% trong tổng số hộ nghèo cả nước; đến năm 2020 giảm còn 35,5% trong tổng số hộ nghèo cả nước, nhưng vẫn cao gấp 3,5 lần tỷ lệ chung của cả nước [10,2%]. Tỷ lệ nghèo cao hơn là một trong những lý do dẫn đến trình độ học vấn thấp ở người dân tộc thiểu số, đặc biệt ở những vùng thực hiện Chương trình 135. 

Mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, một số bản sắc tốt đẹp đang bị mai một. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao, đào tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức. Việc chăm sóc sức khỏe còn nhiều khó khăn; tỷ lệ được cấp thẻ bảo hiểm y tế cao nhưng tỷ lệ khám, chữa bệnh còn thấp. Trẻ em người dân tộc thiểu số dưới một [01] tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong cao hơn so với bình quân chung cả nước. 

Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số và người dân tộc thiểu số còn thấp, trình độ quản lý còn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị các cấp ở một số địa bàn chưa đạt yêu cầu Đảng và Nhà nước đề ra; tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên, Tây Nam bộ còn thấp. 

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nhằm đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số thời gian tới

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”[2]. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nhằm đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số thời gian tới, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giảm dần khoảng cách chênh lệch.

Chú trọng bình đẳng về cơ hội cho đồng bào dân tộc thiểu số về kinh tế, lao động, việc làm. Các địa phương cần tích cực quan tâm đến công tác giảm nghèo bền vững, quy hoạch, sắp xếp dân cư, đẩy mạnh công tác định canh, ổn định cuộc sống và sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cơ hội cho đồng bào dân tộc thiểu số về giáo dục, dinh dưỡng; cải tiến giáo dục phổ thông và đào tạo nghề cho học sinh người dân tộc thiểu số hướng đến phát triển kỹ năng thông thường và kỹ năng xử lý vấn đề phức tạp, thích nghi với thị trường lao động cạnh tranh. Nâng cao kiến thức xã hội, kỹ năng sống, kỹ năng lao động và thông tin thị trường cho lao động người dân tộc thiểu số đảm bảo đúng Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15/6/2016 của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu phấn đấu năm 2030 đạt 70% số lao động người dân tộc thiểu số trong độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi được cung cấp thông tin thị trường lao động, việc làm.

Thực hiện việc chăm sóc sức khỏe ban đầu với chất lượng cao, đảm bảo cho đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng tốt. Thông qua giáo dục, chú trọng vào nhận thức đúng và tôn trọng tính đa dạng về dân tộc và văn hóa của Việt Nam để phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần kiến tạo phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp cần tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ người dân tộc thiểu số tham gia nhiều hơn vào đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị nói chung; vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.

Hai là, tăng cường phát huy dân chủ trong xây dựng và thực thi chính sách, thực hiện bình đẳng dân tộc.

Phát huy hiệu quả sự tham gia, góp ý của đồng bào dân tộc thiểu số vào việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật theo phương châm của Đảng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Huy động các tổ chức xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số tham gia xây dựng và triển khai một số chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và triển khai một số chính sách phù hợp với tình hình mới dựa trên phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển. Cần chú trọng đến những tác động liên quan đến hệ dân tộc khi chính sách được ban hành, đặc biệt là tính công bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số.  

Ba là, tiếp tục đổi mới cách thức quản lý xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Cần chuyển từ hỗ trợ trực tiếp sang chính sách tạo sinh kế, nâng cao ý thức tự lực tự cường, phấn đấu vươn lên hòa nhập với cộng đồng, xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, tạo bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các đối tượng được thụ hưởng và không được thụ hưởng chính sách. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Cấp ủy, tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở phải cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thành những chính sách, chương trình, hành động, kế hoạch cụ thể, đồng bộ và thống nhất. Khi triển khai cần có thí điểm, giám sát và đánh giá. Các bộ, ngành liên quan cần phối hợp chặt chẽ trong việc lồng ghép chính sách trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Bốn là, nâng cao trách nhiệm giải trình, chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị và quyền địa phương trong tổ chức thực thi chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Việc hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, phối hợp giữa các ngành, các cấp, thực hiện đường lối, chủ trương về chính sách dân tộc và miền núi cần xác định rõ trách nhiệm báo cáo, giải trình của các cơ quan, đơn vị về những hoạt động để đánh giá tính hiệu quả, khả thi trong triển khai thực hiện. Nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra các nguồn vốn đầu tư cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đảm bảo công khai, minh bạch; đặc biệt là với những dự án, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Có thể khẳng định, chính sách quản lý nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt, tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố; bộ mặt nhiều khu vực vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều chuyển biến tích cực và rõ rệt. Tuy nhiên, chúng ta không thỏa mãn với kết quả đã đạt được mà cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước theo hướng chuyển sang quản trị nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, coi đó là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết. Thực hiện tốt quản trị nhà nước để không ngừng đảm bảo và nâng cao công bằng, bình đẳng xã hội và chính sách đại đoàn kết dân tộc là việc làm rất quan trọng để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra./. 

“Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng, đặc thù của vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổ chức sản xuất, quản lý xã hội; phát triển nguồn nhân lực có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, kết hợp với phát huy các tri thức bản địa và kinh nghiệm sống, sản xuất của đồng bào trong phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn xã hội”. Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ.

-------------------------------

Ghi chú:

[1] Tổng cục Thống kê, Thống kê thực trạng kinh tế - xã hội dân tộc thiểu số và miền núi công bố ngày 01/7/2020.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.170.

ThS Lê Thị Lý - Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

tcnn.vn

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề