Cảm nhận vẻ đẹp của người lính lái xe trong bài thơ về tiểu đội xe không kính

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe Trường Sơn trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

 

 

 Sơ đồ tư duy

I Dàn ý chi tiết

Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

 Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc.
 Bài thơ về tiều đội xe không kính được sáng tác năm 1969 đã khắc họa được một cách chân thực, sinh động hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng: chiến chống Mĩ cứu nước.

- Vẻ đẹp của những người chiến sĩ trong bài thơ

Qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính, chúng ta còn cảm nhận được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính lái xe trong kháng chiến chống Mĩ để học tập, noi gương theo.

Thân bài:

Vẻ đẹp của hình tượng người chiến sĩ lái xe Trường Sơn được thể  hiện qua những phương diện sau:
– Tư thế ung dung, đĩnh đạc, hiên ngang, bình thản.
– Tâm hồn vừa tinh tế nhạy cảm, vừa bất khuất, kiên định.
+ Câu thơ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng thể hiện được tinh thần sẵn sàng nhìn thẳng vào mọi gian khổ, không hề run sợ, không né tránh.
+ Hình ảnh thiên nhiên hiện ra trong cái nhìn của người lính [gió, con đường, sao trời, cánh chim] cho ta thấy tâm hồn thơ mộng, luôn hòa nhịp với thiên nhiên thơ mộng, biến mọi sự khó khăn, khắc nghiệt do thiên nhiên đem lại thành niềm vui, thành người bạn thân thiết của mình
+ Hình ảnh Con đường chạy thẳng vào tim là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: con đường đến với miền Nam thân yêu luôn ở trong tim.
– Tinh thần vượt qua mọi khó khăn, thử thách
+ Hai tiếng ừ thì thể hiện sự chấp nhận thử thách của những người lính, họ xem việc đó như một sự tất yếu.
+ Hành động chưa cần thay, chưa cần rửa cho ta thấy sự bình thản, thái độ phớt tỉnh mọi khó khăn cực nhọc của những người lính.
+ Tình đồng đội keo sơn gắn bó giúp những người lính tiếp thêm sức mạnh cho nhau.
– Tình yêu đất nước, tinh thần hết lòng vì miền Nam thân yêu, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc là nét đẹp nhất trong chân dung của những người lính lái xe.

Kết bài:

Với giọng điệu trẻ trung, vui tươi, tự nhiên, khỏe khoắn, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa được một hình ảnh sinh động, độc đáo: hình ảnh những chiếc xe không có kính. Qua đó ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lính lái xe Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ cứu nước.

II Bài làm

 

Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, với cảm hứng tươi trẻ và lãng mạn, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đại của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Nhắc đến đây, hẳn chúng ta đều bỗng nhớ đến một tác phẩm của nhà thơ Phạm Tiến Duật, một câu chuyện về những người lính lái xe Trường Sơn, đó chính là Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Vẻ đẹp của những người lính giữa sự khốc liệt của chiến tranh đã hiện lên thật cao cả qua những vần thơ lãng mạn. Ta có thể cảm nhận được hiện thực tàn khốc của cuộc chiến ngay từ những câu thơ mở đầu:

Dữ dội làm sao ôi những làn mưa bom đạn. Ấy vậy mà những người lính dường như không hề chùn bước, họ luôn mang trong mình sự tự chủ lạ kì.

Vẻ đẹp phi thường của những người lính lái xe được toát lên qua tư thế hiên ngang ung dung và tự chủ. Cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát và điệp từ “nhìn”, hình ảnh người chiến sĩ hiện lên thật ngạo nghễ, không thẹn với đất trời, mặc cho bao thử thách của cuộc chiến. Dù cho phía trước là con đường chông gai đầy gian khổ hiểm nguy, những người lính vẫn giữ cho tâm hồn mình luôn tươi sáng và lạc quan để thưởng thức những vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.

Những câu thơ tả thực tới từng chi tiết. Dường như ở phía trước, cả không gian đất trời thu vào tầm mắt của họ, như ùa vào với họ qua những ô cửa kính đã vỡ. Gió, con đường, sao trời và cánh chim vừa thực mà vừa thơ, chính là những cái thi vị giản đơn nảy sinh trên con đường bom rơi đạn nổ. Phải là những con người với một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, với một nghị lực phi thường và thái độ bất chấp hiểm nguy mới có thể tìm thấy bên trong những tiếng nổ ì ầm trời đất bao nét thơ mộng của thiên nhiên.

Nhưng không chỉ là tư thế tự chủ và tĩnh tại hiện rõ trong những anh lính lái xe, mà ở họ còn ngời lên tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ.

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô ngay thôi.

Đây phải chăng chính là khúc nhạc vui của tuổi mười chín đôi mươi hồn nhiên nông nổi, gợi cho người đọc một cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản, và trong chốc lát khiến ta quên đi những khó khăn đang đợi chờ phía trước. Với việc sử dụng đảo ngữ và cụm từ “ừ thì”, những câu thơ đầy chất lính đã diễn tả vừa chính xác cụ thể, vừa khôi hài gợi cảm hiện thực khó khăn của cuộc chiến. Họ phải không ngừng đối mặt với hiểm nguy nơi “túi bom chảo lửa”, phải sống trong làn gió bụi mịt mù và những cơn mưa rừng xối xả, phải đương đầu với bao vất vả giữa chốn núi rừng Trường Sơn. Nhưng bụi mù và mưa tuôn không thể khiến họ sờn lòng nản chí, không thể làm mất đi vẻ đẹp của một lối sống hồn nhiên, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách một cách nhẹ nhàng. Thấp thoáng trong câu chữ chính là những tâm hồn dung dị đầy chất lính với vẻ đẹp ngang tàng và tinh nghịch thật đáng mến.

Kì diệu làm sao, khi sự khốc liệt đến tê tái lòng người của chiến tranh lại tạo nên những tiểu đội xe không kính. Dọc theo con đường giải phóng miền Nam, họ càng đi càng có thêm bạn, thứ tình cảm tuy mộc mạc mà gắn bó keo sơn.

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.

Những cái bắt tay qua ô cửa đã vỡ, thật thoải mái, chân thành mà đằm thắm tình đồng đội. Chỉ cần một cái bắt tay thôi cũng đủ ấm lòng, đủ động viên nhau và truyền cho nhau cả sự cảm thông đặc biệt. Đến đây, những câu thơ này chợt khiến chúng ta nhớ tới những cái nắm tay của người lính trong đêm đông giá rét trong bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu. Chỉ qua một cử chỉ nhỏ bé ấy thôi, những người lính kiên cường có thể sẻ chia với nhau cả tâm hồn, tinh thần, nghị lực và sức mạnh vô song.

Một cách định nghĩa gia đình mới tếu hóm và kì lạ làm sao. Không phải là những con người chung huyết thống, những con người ruột thịt. Mà gia đình, chính là những con người với bao cái chung, chung bát, chung đũa, chung nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh và chung những gian nguy đang đợi chờ phía trước. Họ xích lại gần nhau trong khó khăn thử thách, tình cảm của họ được tôi luyện qua lửa đạn và sẽ trở thành vĩnh cửu. Họ còn chia sẻ với nhau cả những giờ phút nghỉ ngơi ngắn ngủi của mình trong hoàn cảnh thiếu thốn đầy gian khó.

Từ láy “chông chênh”, vừa gợi hình, vừa gợi cảm, cho ta cảm nhận được cái chông chênh của cuộc đời người lính, khi ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ mong manh như ngọn đèn trước gió. Nhưng dù có chông chênh đến bao nhiêu thì ý chí chiến đấu, khí phách và nghị lực của họ vẫn luôn vững vàng, kiên định. “Lại đi, lại đi”, bánh xe của họ sẽ không ngừng lăn.

Mọi ý chí, mọi quyết tâm của họ đều hướng về cái đích duy nhất, đó chính là sự nghiệp giải phóng miền Nam, là động lực mạnh mẽ tạo nên sức mạnh phi thường để những người lính vượt qua mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt và tàn phá.

Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vấn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Với việc sử dụng phép liệt kê và điệp từ “không có”, những câu thơ trên đã tái hiện được sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe và hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Nhưng điều phi thường, là không bom đạn nào, không hiểm nguy nào có thể ngăn cản những chiếc xe tiếp tục tiến lên phía trước. Bởi cái tiêu phía trước là miền Nam yêu dấu đã luôn khích lệ họ. Bởi trong xe luôn vẹn nguyên một trái tim người lính yêu thương, can trường. Một trái tim nồng cháy, một lẽ sống cao đẹp là hình ảnh hội tụ của tâm hồn và phẩm chất những người cầm lái. Trái tim người chiến sĩ sẽ mãi tỏa sáng rực rỡ, mái gợi nhớ ta về một thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ oanh liệt.

Chiến tranh đã qua đi hơn ba mươi năm nay, nhưng hình ảnh những người anh hùng trong thời đại anh hùng của dân tộc sẽ sống mãi với đất nước. Họ đã tạo nên vẻ đẹp của những anh bộ đội Cụ Hồ dũng cảm, kiên cường, và mãi mãi được người đời vinh danh. Với họ, chính là ý chí khát vọng chiến đấu để giải phóng miền Nam, là lòng yêu nước nồng nàn, là nhiệt huyết của tuổi trẻ đã tạo nên sức mạnh và niềm tin vững chắc của chiến thắng kì diệu.

C/ Bài văn mẫu

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe Trường Sơn – mẫu 1

Đó là ý chí của những chiến sĩ Trường Sơn. Các anh hiện lên trên trang thơ thật dí dỏm, thật yêu đời. Khi gian khổ tưởng chừng không thể nào vượt qua được, khi cái chết tới gần. Vậy mà nụ cười lạc quan vẫn hiện hữu trên khuôn mặt các anh, nụ cười ấy rất ngang tàng và cũng đầy tinh nghịch. Nhắc tới họ, ta không thể quên người chiến sĩ lái xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Không biết nhà thơ dã bao nhiêu lần trực tiếp lái chiếc xe như thế mà ông lại viết ra được những dòng thơ hết sức chân thực và sống động đến vậy:

“Không kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Đó là lời giới thiệu của các anh, hết sức giản dị, rất thật. Trên chiếc xe không có kính đó người lính lái xe ở tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng khốc liệt. Bom giật bom rung họ vẫn vững tay lái, nhấn ga cho xe băng băng lao ra chiến trận.Chúng ta hãy lắng nghe các anh kết chuyện về mình với giọng điệu thật vui vẻ và hài hước:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

Ung dung được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh tư thế bình tĩnh, đường hoàng, hiên ngang, tự tin khi họ phải lái một chiếc xe không kính. Nhìn thẳng là nhìn vào gian khổ, hy sinh không run sợ, không né tránh bởi họ chiến đấu vì chính nghĩa. Lái xe không kính, là gặp phải khó khăn nhưng những khó khăn lại thật bất ngờ:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

Những câu thơ rất thực, thực đến từng chi tiết. Xe không có kính chắn gió lại chạy với tốc độ cao nên người lính lái xe phải đối mặt với bao nguy hiểm: gió xoa mắt đắng, con đường ngược lại chạy thẳng vào tim, sao trên trời, chim dưới đất bất ngờ như sa, như ùa, như rơi, rung, quăng, ném vào buồng lái... Những câu thơ chân thực, sống động, đầy ấn tượng như chính nhà thơ đang cầm vô lăng mà lái.Bao khó khăn thử thách nhưng người lính lái xe vẫn không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế của các anh rất hiên ngang, ung dung tự tại, tinh thần của các anh vẫn vững vàng. Bởi các anh vẫn quyết tâm vượt qua gian khổ, để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao.

“Không có kính, ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Nhà thơ lại tiếp tục khắc họa những khó khăn, gian khổ của những người lính lái xe. Những câu thơ như những lời nói thường ngày, không gắn liền với những tiếng nói bỗ bã, đầy chất lính ngang tàng song cũng rất đáng yêu như bật lên từ tình cảm thực của những người lính lái xe. Khó khăn là thế và vẫn chấp nhận là tất yếu: “ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” nhưng cũng với thái độ rất thản nhiên:

“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Sự bình thản của những người lính lái xe đến vô tư. Câu thơ cân đối, nhịp nhàng theo độ rung của bánh xe lăn, các thanh bằng, trắc phối hợp linh hoạt, giọng thơ pha chút ngang tàng thường thấy ở người lái xe.Hai khổ thơ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe: dũng cảm, hiên ngang, phớt đời, bất chấp hiểm nguy trước biết bao thử thách. Họ đạp bằng gian khó tiến về phía trước với một quyết tâm giải phóng miền Nam. Đúng là chiến tranh ác liệt có thể tàn phá những phương tiện kỹ thuật vật chất nhưng không thể đè bẹp được sức mạnh tinh thần của con người. Trái lại, nó chỉ càng làm nổi rõ thêm tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của họ mà thôi:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”

Trong hoàn cảnh ác liệt, những người lính lái xe có cùng một mục đích, cùng chung lý tưởng nên ở họ đã hình thành nên tình cảm đồng chí, đồng đội tốt đẹp, ấm cúng như trong một gia đình.

Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi đã gợi lên ý nghĩa về người lính lái xe gan góc vượt qua gian nan thử thách. Khi gặp nhau tình cảm giao lưu của họ thật là đặc biệt:

“Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Lại đi, lại đi trời thêm xanh.”

Khổ thơ cuối cùng có một cái gì đó thật lãng mạn và lạc quan:

“Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe không có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng đến trơ trụi: không kính, không đèn, không mui... Nhưng đoàn xe vẫn cứ chạy vì một mục đích cao cả: vì miền Nam ruột thịt, vì thống nhất nước nhà. Thì ra mọi cội nguồn tạo ra sức mạnh của đoàn xe được tích tụ lại ở trái tim gan góc, kiên cường giàu bản lĩnh nhưng chan chứa tình yêu thương ở người cầm lái. Chính tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào đã khích lệ, động viên người lính lái xe đạp bằng gian khó, lạc quan, bình tĩnh, nắm chắc vô lăng, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe tới đích. Khổ thơ cho ta thấy chân lý của cuộc đời: sức mạnh không chỉ là vũ khí, là vật chất mà chính là con người. Con người mang trái tim nồng cháy, yêu thương, có ý chí kiên cường chiến đấu là con người chiến thắng:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Câu thơ làm tỏa sáng hình tượng người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, là linh hồn của cả bài thơ.Bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người chiến sĩ lái xe thật đẹp, thật dí dỏm, thật lính. Đó là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mỹ một thế hệ anh hùng, sống đẹp và giàu lí tưởng. Họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì, đi bất cứ đâu mà Tổ quốc cần, trong gian khổ vẫn giữ vững một niềm tin, một niềm lạc quan tin tưởng vào chiến thắng. Đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe Trường Sơn – mẫu 2

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông là người lính trực tiếp cầm súng ra mặt trận và là người chiến sĩ lái xe vận tải chở vũ khí, lương thực ào ào trên tuyến lửa Trường Sơn đầy bom rơi, đạn lạc. Vì thế, hiện thực khốc liệt của chiến tranh đã trở thành chất xúc tác, khơi nguồn mạch chảy cảm xúc văn chương cho Phạm Tiến Duật, để rồi hình tượng người lính và các cô gái thanh niên xung phong cứ lặng lẽ, tự nhiên, chân thật đi vào trong thơ ông mà tạo nên biết bao thi phẩm tuyệt tác, độc đáo.Và một trong các bài thơ đó có "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một tác phẩm hay, rất tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn, tươi vui, tràn đầy sức sống, đậm đà chất lính của nhà thơ. Tác phẩm nằm trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, sau được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa". Qua bài thơ, người đọc thấy được hiện thực khốc liệt của chiến tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến đấu ngoan cường, mạnh mẽ của những người lính lái xe trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, bài thơ là bức tượng đài tráng lệ, thiêng liêng về người lính lái xe anh hùng trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ cứu nước.

Trước hết, hình tượng người lính hiện lên là những chàng trai dũng cảm, hiên ngang, ung dung, bất khuất trong tư thế lái những chiếc không kính. Mặc dù những chiếc xe bị bom đạn hủy hoại, tàn phá nhưng các anh vẫn rất hiên ngang, ngạo nghễ vững tay lái cho xe lăn bánh bon bon ra chiến trường:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

...

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng khách quan, chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn: nào là "gió", nào là "cánh chim", nào là "sao trời"... tất cả “như sa, như ùa" vào mặt, vào người, vào trong buồng lái; các động từ mạnh như “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính lái xe phải đối diện. Tuy nhiên, đứng trước hoàn cảnh ấy, người lính không hề run sợ, hoảng hốt, né tránh mà trái lại rất đàng hoàng, hiên ngang, thoải mái:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ “ung dung” lên trước đã cho thấy tư thế rất tự tin, bình thản và có phần ngang tàng của người lính. Điệp từ “nhìn”, “thấy” được lặp đi lặp lại cho thấy tất cả khung cảnh thiên nhiên như bỗng chốc bé lại, thu vào đôi mắt của người lính. Điều đó không chỉ cho thấy sự tập trung cao độ của một tinh thần trách nhiệm lớn lao mà còn cho thấy được tâm hồn lãng mạn, hiên ngang, mở lòng đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua ô cửa kính vỡ. Chưa dừng lại ở đó, trên dọc đường lái xe ra tiền tuyến, người lính còn chịu rất nhiều những khó khăn từ ngoại cảnh như gió, mưa và bụi.

Nhưng với tinh thần quả cảm, mạnh mẽ, bất chấp, khó khăn, gian khổ người lính đã vượt qua tất cả:

“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

…..

“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

Điệp ngữ “Không có kính, ừ thì…”; “chưa cần…” là lối nói mang đậm tính khẩu khí ngang tàng. Với cách nói nôm na, thông thường mà cứng cỏi, mạnh mẽ họ đã biến những khó khăn thành những điều thú vị. Người đọc như nghe thấy tiếng cười rũ sạch mọi gian khổ của người lính. Những chi tiết hình ảnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây nữa… khô mau thôi” đã cho thấy tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của họ. Cảm giác như những khó khăn ấy cũng không thể nào dập tắt đi chất trẻ trung, tinh thần lạc quan và dũng cảm của người lính.Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí, nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:

“Những chiếc xe từ trong bom rời

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ đi rồi.”

Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả. Họ coi nhau như anh em ruột già máu mủ trong gia đình:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm”

Ta bắt gặp cách định nghĩa rất riêng của PTD về gia đình – về mối quan hệ thiết thân của những người lính trong chiến tranh, đó là: chung bát đũa, chung bếp lửa, chung hoàn cảnh khó khăn, chung con đường chiến đấu… Tất cả những điều ấy đã khiến những con người vốn xa lạ nhưng lại hóa quen nhau, thân thiết gắn bó keo sơn, đoàn kết cùng nhau vì lí tưởng cách mạng cao đẹp. Chính tình cảm đồng chí, đồng đội đã tiếp sức cho những người lính tiến lên phía trước: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp từ “lại đi” có ý nghĩa nhấn mạnh đến những đoàn xe không kính không ngừng tiến lên phía trước.Hình ảnh “trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, yêu đời, chan chứa niềm hi vọng của người lính vào tương lai phía trước của cuộc sống, của cách mạng. Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy, trông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dũng cảm, niềm lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính. Chính “trái tim” của họ là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ là một bức tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mĩ cứu nước với tinh thần:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Điều đó cho thấy tinh thần yêu nước sâu sắc và sự ý thức trách nhiệm công dân cao độ của những người lính khi tổ quốc lâm nguy.Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc điệu...Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt son. Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời gian năm tháng và trong lòng mỗi người Việt.

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe Trường Sơn – mẫu 3

Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt vẻ đẹp của những cô gái thanh niên xung phong, của những người lính trên tuyến đường Trường Sơn trở thành một đề tài hết sức hấp dẫn, luôn nhận được sự quan tâm, sáng tác của nhiều tác giả. Và trong những tác phẩm ấy, ta không thể không nhắc đến những người lính trên chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Chân dung họ hiện lên với những khám phá mới mẻ mà vẫn vô cùng thống nhất.

Nếu như, trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu hình ảnh người lính nông dân hiện lên trong sự đồng cam cộng khổ, thấu hiểu những nỗi niềm của nhau, nhớ cây đa, bến nước, cùng nhau vượt qua thiếu thốn : Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay . Thì người lính trong tác phẩm này lại hiện lên với một chân dung mới lạ, khác hẳn. Họ là những con người trẻ trung mang trong mình vẻ ung dung, hiên ngang trước những thử thách trên tuyến đường Trường Sơn:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”

Trong cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt, nhưng người lính vẫn giữ được phong thái ung dung, với cái nhìn thẳng đầy tự tin, tràn đầy nhiệt huyết. Nhịp thơ 2/2/2 kết hợp với từ láy ung dung được đảo lên đầu câu nhấn mạnh vào tư thế hiên ngang, làm chủ chiến trường của những người lính. Cái nhìn thẳng của họ không chỉ là nhìn vào con đường phía trước với sự tập trung cao độ mà đó còn là cái nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh khốc liệt, tinh thần sẵn sàng tiến lên phía trước. Sau cái nhìn đó là cảm nhận của người chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng/ Thấy con đường chạy thẳng vào tim/ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/ Như sa như ùa vào buồng lái.Bốn câu thơ vừa khắc họa khung cảnh hiện thực nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, lãng mạn. Những chiếc xe không kính di chuyển trên đường nên tất yếu các cơn gió sẽ ùa vào khoang lái, gió bụi ùa vào khiến họ cảm thấy bỏng rát, nhất là vào những trưa hè. Nhưng dưới con mắt lãng mạn của người chiến sĩ thì những ngọn gió đó vào xoa dịu những vất vả của họ. Hình ảnh con đường chạy thẳng vào tim là một trường liên tưởng vô cùng thú vị. Diễn tả được tốc độ di chuyển nhanh của những chiếc xe không kính, lao mình trong mưa bom bão đạn, không sợ hiểm nguy.Không chỉ vậy, dưới con mắt đầy thi sĩ của người chiến sĩ, họ còn thấy những chú chim và sao trời sa, ùa vào buồng lái, làm bạn với họ trên quãng đường đầy gian khổ, ác liệt. Với nghệ thuật nhân hóa, sử dụng động từ mạnh sa, ùa tác giả đã cho thấy cái nhìn lạc quan của những người lính: thiên nhiên không phải trở ngại, cản bước họ tiến lên mà trở thành người bạn thân thiết, chia sẻ với họ những gian lao trên con đường tiến vào miền Nam.

Không chỉ là những con người ung dung, hiên ngang, trong tâm hồn những người lính trẻ ấy còn mang trong mình nhiệt huyết cách mạng, dũng cảm, coi thường nguy hiểm, gian khổ và một tinh thần trẻ trung, sôi nổi, lạc quan. Khổ thơ thứ ba và thứ tư đã cho thấy những khó khăn người lính phải đối mặt: không có kính khiến bụi, mưa tuôn mưa xối như ở ngoài trời. Đây là những câu thơ miêu tả hết sức chân thực những khó khăn mà người lính phải trải qua trên con đường Trường Sơn vô cùng nguy hiểm. Các động từ tuôn, xối, phun càng nhấn mạnh hơn nữa sự khắc nghiệt mà thiên nhiên đang thử thách các anh. Nhưng trái lại, những người lính đáp lại bằng câu nói nhẹ nhàng, dường như đó chẳng phải là vấn đề đáng bận tâm: ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo. Các anh sẵn sàng đối mặt với tất cả thử thách bằng tinh thần hiên ngang, cứng cỏi, bằng giọng điệu vui đùa, trẻ trung.Không chỉ vậy họ còn hết sức tinh nghịch, trẻ trung. Dù bụi lùa vào khoang lái họ vẫn có những tiếng cười thật rộn rã: nhìn nhau mặt lấm cười ha ha, tiếng cười khoan khoái đã giúp họ xóa tan bao cực nhọc, tiếp thêm sức mạnh để họ vững bước lên đường. Tinh thần lạc quan yêu đời chính là biểu hiện rõ nét nhất của lòng dũng cảm, của sức mạnh tinh thần ở người chiến sĩ. Khổ thơ đã tạc lên chân dung đẹp đẽ, những phẩm chất thật quý báu của người lính.

Trong những năm tháng kháng chiến, phải sống xa gia đình, thì tình cảm đồng chí đồng đội gắn bó thật đáng quý và đáng trân trọng. Nguồn sức mạnh tinh thần ấy sẽ giúp họ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Những người lính lái xe cũng vậy, qua những ô cửa kính vỡ chỉ cần cái bắt tay vội vã mà nồng ấm tình thương cũng khiến những con người xa lạ trở nên gần gũi với nhau hơn. Và còn điều gì tuyệt vời hơn, khi tranh thủ cùng ăn bát cơm trắng đạm bạc với nhau giữa rừng. Những lúc đó họ không chỉ còn là những người bạn đường nữa mà đã trở thành gia đình của nhau: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/ Chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy. Chính những bữa cơm ấy giúp họ xích lại gần nhau hơn, gắn bó với nhau như những người trong gia đình. Tình cảm đồng chí, đồng đội, tình cảm gia đình gắn bó chính là nguồn động lực tiếp sức họ lên đường: Võng mắc chông chênh đường xe chạy/ Lại đi lại đi trời xanh thêm. Với tinh thần, ý chí chiến đấu kiên cường họ vẫn kiên gan, bền bỉ lại đi, lại đi vì màu xanh hi vọng, độc lập ở phía trước.Đối lập với những khó khăn, thiếu thốn vật chất bên ngoài là sức mạnh tinh thần bền bỉ, mạnh mẽ của người lính với trái tim nhiệt thành, cháy bỏng: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/ Chỉ cần trong xe có một trái tim. Những chiếc xe không chỉ chạy bằng nhiên liệu mà còn chạy bằng ý chí, nghị lực phi thường của những người lính. Chỉ cần có trái tim lạc quan, mang trong mình niềm tin chiến thắng thì người lính có thể đưa đoàn xe đến mọi nẻo đường.

Với ngôn ngữ và giọng điệu độc đáo tác giả đã khắc họa lên tượng đài người lính lái xe vừa hiên ngang, dũng cảm vừa hóm hỉnh, lạc quan yêu đời. Họ là những hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Đó là thế hệ anh hùng, hiên ngang, dũng cảm, quyết đem cả tính mạng, tuổi trẻ của mình để cứu nước.

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe Trường Sơn – mẫu 4

Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ, đã từng trải nghiệm cuộc sống trên tuyến đường Trường Sơn nên thơ của Phạm Tiến Duật hầu như chỉ viết về những người lính trẻ và những cô thanh niên xung phong. Thơ ông chinh phục trái tim bạn đọc bằng những giọng điệu sôi nổi trẻ trung, ngang tàng và mang đậm chất lính. “Bài thơ tiểu đội xe không kính” đã in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Phạm Tiến Duật sáng tác bài thơ này vào năm 1969 trong thời điểm gay go, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thi phẩm nằm trong chùm thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Trong thi phẩm, Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn - hình ảnh cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.Chân dung người lái xe Trường Sơn được tác giả khắc họa qua hình ảnh những chiếc xe không kính và một giọng thơ ngang tàng, trẻ trung, gần gũi. Cảm hứng về những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về vẻ đẹp của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ. Đó là tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, đó còn là lòng lạc quan, yêu đời, tình đồng chí đồng đội thắm thiết và lòng yêu nước nồng nàn, lý tưởng chiến đấu cao đẹp.Cái nhìn lạc quan của người lính về sự ác liệt của chiến tranh được thể hiện rất rõ qua cách lý giải về những chiếc xe không kính:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Điệp từ “không” khiến câu thơ giãn ra, tạo nhịp điệu khoan thai, đặc biệt từ “rồi” khép lại câu thơ thứ hai đã làm nên một giọng điệu rất nhẹ. Người lính nói về những chiếc xe không kính chính là nói về cuộc chiến khốc liệt mà họ phải trải qua. Vậy mà người lính lái xe lại kể về tất cả những điều ấy bằng một giọng thản nhiên đến lạ lùng. Điều này cho thấy rất rõ cái nhìn bình thản của người lính về những mất mát của bom đạn mà kẻ thù đã gây ra. Đó là cái nhìn lạc quan của bản lĩnh anh hùng.Phẩm chất anh hùng của một người lái xe Trường Sơn ngời sáng qua tư thế ung dung:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng”

“Ung dung" là tư thế thoải mái, là tâm trạng bình thản và thái độ bình tĩnh, tự tin. Đặt vào hoàn cảnh chiến tranh ác liệt lại lái những chiếc xe không kính thì sự ung dung này chính là biểu hiện cho lòng dũng cảm của người lính lái xe. Điệp từ “nhìn” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa lên tư thế hiên ngang của người lính. Tư thế ấy là một sự thách thức với bom đạn của kẻ thù. Phải chăng nhờ những chiếc xe không kính mà người lính mới có điều kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng và nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao của mình. Miêu tả cảm giác của người lính khi lái những chiếc xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mở ra một thế giới tâm hồn phong phú, đẹp đẽ của họ:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái”

Không còn kính chắn gió, người lái xe lại có cái thú vị là được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Qua khung cửa không còn kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với “sao trời” và “cánh chim” cũng như “ùa vào buồng lái”. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã miêu tả rất chính xác cái cảm giác mạnh và đột ngột khi ngồi trên chiếc xe không kính lao nhanh về phía trước. Nhịp thơ dồn dập, khỏe khoắn, vừa gợi cảm giác về tốc độ của tiểu đội xe không kính, vừa mở ra tâm trạng hồ hởi, háo hức của người lính trên đường ra trận. Với người chiến sỹ Trường Sơn “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Bởi niềm hạnh phúc lớn nhất là được có mặt trên trận tuyến đánh quân thù. Với những câu thơ này, Phạm Tiến Duật đã làm dậy khí thế của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. Cái nhìn của người lính lái xe vào thiên nhiên vũ trụ là cái nhìn đậm chất lãng mạn chỉ có ở những người can đảm, biết vượt lên những thử thách khốc liệt. Lái xe không kính không phải là không gặp những khó khăn nào là “Gió vào xoa mắt đắng”, rồi những thứ bên ngoài như quăng như quật vào người lái xe nhưng chủ yếu vẫn là cảm giác thú vị về thiên nhiên vũ trụ bỗng trở nên thật gần gũi. Hóa thân vào những người chiến sĩ lái xe, tác giả đã nhìn hiện thực chiến tranh bằng con mắt của người lính. Đó là cái nhìn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời.Trước những thách thức khốc liệt do những chiếc xe không kính mang lại, người lính đã tỏ thái độ bất chấp, coi thường hiểm nguy.

Hai khổ thơ đầy ắp những chi tiết hiện thực, đó là một kiểu hút thuốc “phì phèo” rất lính, rồi tiếng cười “ha ha” vô tư, sảng khoái, đó là “bụi phun”, “mưa tuôn”, “mưa xối”. Những chi tiết rất thực rất sống động ấy mà đưa ta đến cuộc sống gian khổ nhưng đầy ắp niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ. Hiện thực đời lính đã được Phạm Tiến Duật tái hiện bằng những câu thơ đậm chất văn xuôi và một giọng thơ ngang tàng, hồn nhiên rất lính. Thực tế những bánh xe lăn là những gian khổ, những hiểm nguy. Đó là những thách thức rất thực mà những người lính lái xe không kính đã trải qua trên đường và chiến trường. Nhưng với họ, gian khổ chả có ý nghĩa gì. Điệp từ “ừ thì” và “chưa cần” đã làm bật lên thái độ thách thức, bất chấp hiểm nguy của người lái xe. Đây là thái độ của con người đứng cao hơn hoàn cảnh, coi thử thách là cơ hội để thể hiện mình. Không phải là người lính gồng mình lên để vượt qua gian khổ, mà các anh đã chiến thắng thử thách khốc liệt một cách hết sức nhẹ nhàng bằng tiếng cười “ha ha” đầy sảng khoái. Đó là tiếng cười của niềm lạc quan yêu đời, chất chứa trong đó biết bao hồn nhiên, trong sáng tuổi trẻ. Bằng ống kính điện ảnh, nhà thơ đã ghi lại được những khoảnh khắc xúc động của tình đồng chí, đồng đội giữa những người lính Trường Sơn.

Phạm Tiến Duật đã khéo léo đưa những chiếc xe không kính vào thơ để làm cơ sở nảy nở tình cảm giữa những người lính lái xe. Mới đầu chỉ là những chiếc xe không kính, nhưng về sau đã hợp thành cả một tiểu đội xe không kính. Từ “tiểu đội” cho ta hiểu rằng tình cảm giữa những người chiến sĩ lái xe trước hết là tình đồng đội giữa những con người cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Qua hình ảnh tiểu đội xe không kính, nhà thơ vừa gợi được sự ác liệt của chiến tranh, vừa tạo ra được tình huống để người lính lái xe bộc lộ tình đồng chí đồng đội.Nhờ xe không có kính mà người lính dễ dàng giao lưu với nhau hơn. Không kính tưởng như thô sơ, hỏng hóc nhưng đến đây đã làm bật lên vẻ đẹp riêng của nó. Gặp nhau trên con đường Trường Sơn huyết mạch, người lính bắt tay nhau qua cửa kính vỡ như một cách bộc lộ tình cảm. Cái bắt tay nồng ấm tình đồng chí này không nhẹ nhàng như cái nắm tay giữa những người nông dân trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu mà có một cái gì đó thật mạnh mẽ và ngang tàng. Đây cái bắt tay này còn có cả những tiếng cười hồn nhiên trong sáng và cái sôi nổi của tuổi trẻ mang theo vào chiến trường.Đầu tiên giữa những người lính lái xe chỉ là tình đồng đội giữa những người cùng một tiểu đội, về sau đã phát triển thành bạn bè và hơn thế nữa thành tình cảm gia đình.

Bếp Hoàng Cầm là bếp dã chiến do anh nuôi tên là Hoàng Cầm chế tạo ra. Đây là loại bếp được đặt sâu trong lòng đất để hạn chế sự tỏa khói, tránh bị địch phát hiện. Nhưng đi vào trang thơ Phạm Tiến Duật, cái bếp của người lính đã được “dựng giữa trời”, thật sừng sững, thật ngang tàng như thách thức kẻ thù. Trong thơ Phạm Tiến Duật, bếp hoàng cầm đã trở thành tín hiệu của sự sum họp, đoàn tụ. Ở nơi nào có bếp Hoàng Cầm là nơi đó có một gia đình lính, bởi theo họ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Câu thơ có giọng điệu rất dí dỏm và thoáng nụ cười hồn nhiên rất chất lính. Ở đây tác giả đã có một cách định nghĩa rất độc đáo về gia đình. Đối với những người lính lái xe, không nhất thiết phải chung huyết thống mà chỉ cần chung bát, chung đũa thì đã là gia đình rồi. Bát đũa bình thường giản dị mà đã trở thành vật thiêng liêng gắn kết tình cảm giữa những người lính xa nhà chỉ cần được quay quần xung quanh bếp Hoàng Cầm, cùng chia sẻ bữa cơm đạm bạc là họ đã được tận hưởng cảm giác ấm cùng của gia đình. Dường như với những người lính Trường Sơn, tình đồng chí đồng đội cũng đẹp đẽ, thiêng liêng chẳng khác nào tình cảm gia đình.Lý tưởng chiến đấu cao đẹp và niềm tin vào chiến thắng của dân tộc ở người lính lái xe được thể hiện thật chân thành và xúc động trong những vần thơ giản dị.

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm”.

Tác giả đã miêu tả hết sức chân thực giấc ngủ của người lính lái xe. Giấc ngủ “chông chênh” vì đường xe chạy gập ghềnh, từ láy “chông chênh” đã góp phần tô đậm cuộc sống gian khổ của người lính Trường Sơn.Câu thơ cuối ngắt nhịp 2/2/3 đã làm nên âm hưởng phơi phới. Đặc biệt điệp ngữ “lại đi” khiến câu thơ như một tiếng reo vui, chất chứa trong đó là bao nhiêu hồ hởi, háo hức của người lính lúc lên đường ra trận. Người lính hiểu mỗi chuyến xe vào chiến trường là để cho “trời xanh thêm”. Hình ảnh “trời xanh” là ẩn dụ cho hòa bình, cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đến đây lí tưởng chiến đấu của người lính Trường Sơn đã sáng ngời. Người chiến sĩ thấy “trời xanh thêm” là đã tin tưởng vào ngày chiến thắng đang đến gần, niềm tin ấy đã làm nên nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao cho cả tiểu đội xe không kính.Vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn kết đọng ở lòng yêu nước cháy bỏng và ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam:

“Không có kính, rồi xe không có đèn

.......

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Điệp ngữ “không có” đã làm nên âm điệu nhanh, mạnh, khỏe khoắn, dồn dập cho cả đoạn thơ. Ta cảm nhận thấy trong nhịp điệu ấy khí thế khẩn trương, hối hả của những đoàn xe ra trận và cả sự ác liệt trong cuộc chiến. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật liệt kê “không có kính”, đồng nghĩa với sự chồng chất những mất mát, hi sinh của người lính. Đến đây hình tượng những chiếc xe không kính đã phát triển ở mức cao hơn. Xe không chỉ “không có kính”, mà còn “không có đèn”, “không có mui xe”, chiếc xe đã trở lên hỏng hóc, méo mó và biến dạng như một thứ đồ phế thải. Tưởng chừng xe không thể chạy được, nhưng thật kì diệu “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Đây là một điều bất ngờ, hơn thế nữa là những phi thường, là một sự bất chấp đầy thách thức. Tại sao lại có điều kì diệu ấy? Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phát hiện rằng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thì dù thế nào xe vẫn cứ chạy. Không có cách lí giải nào cụ thể và thuyết phục hơn thể “Chỉ cần” có nghĩa là yếu tố duy nhất để xe vẫn cứ chạy chính là trái tim người lính. Chỉ có trái tim quả cảm, giàu lòng yêu nước của người chiến sĩ lái xe thì có mọi khó khăn đã lùi lại phía sau. Đặc biệt nhà thơ đã phát hiện ra cả tiểu đội xe không kính vẫn chạy vì “miền Nam phía trước”, vì một nửa đất nước đang dưới gót giày xâm lược của đế quốc Mỹ. Ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của người lính Trường Sơn đến đây đã ngời sáng.Đẹp nhất trong bài thơ là “trái tim” người lính. Hình ảnh này được đặt trong thể đối lập với ba cái “không”: “không kính”, “không đèn”, “không mui”. Đây chính là sự đối lập giữa cái ác liệt của cuộc chiến với tinh thần, khí phách, tấm lòng của người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” chính là hoán dụ cho người chiến sĩ Trường Sơn yêu nước dũng cảm. Với hình ảnh giàu ý nghĩa này, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mở ra một góc nhìn mới cho hình tượng người lính lái xe không kính. Phải chăng “trái tim” là cội nguồn sức mạnh của cả tiểu đội xe không kính, gốc rễ phẩm chất anh hùng của người lính Trường Sơn. Từ hình ảnh “trái tim” cầm lái, nhà thơ đã khẳng định một chân lí của thời đại chống Mĩ, đó là sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là phương tiện, vũ khí mà là con người với trái tim yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường dũng cảm. Có thể nói hình ảnh “trái tim” đã làm bật lên chủ đề của bài thơ và làm ngời sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ.

Hình ảnh người lính lái xe không kính đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc họa bằng chất liệu hiện thực sống động của cuộc sống chiến trường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ tự nhiên, khỏe khoắn, mang cái ngang tàng của những người trẻ. Chọn hình ảnh những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành một hình tượng điển hình nhằm phản ánh hiện thực chiến tranh là biểu dương tinh thần, ý chí của người lính Trường Sơn. Đặc biệt tác giả đã khắc họa thành công chân dung người lính lái xe với nhiều phẩm chất cao quý. Đó là tư thế hiên ngang, dũng cảm, là thái độ bất chấp, coi thường nguy hiểm. Đó còn là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội và lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng, ý chí chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Với những phẩm chất cao đẹp ấy, người lính lái xe trong bài thơ đã trở thành biểu tượng đẹp cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã góp một tiếng nói mới mẻ về người lính, về tuổi trẻ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thi phẩm đã đem đến cho nhiều thế hệ bạn đọc những hiểu biết về những đóng góp hi sinh của thế hệ cha anh, đồng thời giáo dục thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc.

 

 

 

 

Chủ Đề