Còn hai con mắt khóc người một con nghĩa là gì

[Vài cảm nhận về bài hát “Con mắt còn lại” của nhạc sĩ TCS]

Huế, mưa buồn. Những hạt mưa tuôn không dứt. Đời sống như chậm lại.

Thời tiết này thích nhất là ngồi uống cà phê, nghe nhạc Trịnh!

Tôi ngồi nghe bài hát “Còn hai con mắt khóc người một con”, thấy hay hay, vui vui, và nhẩm hát theo:

“ Còn hai con mắt khóc người một con Còn hai con mắt một con khóc người”...

Nghe bài hát

Nhưng rồi tôi lại nghĩ thầm, sao lại chỉ có một con mắt? Con mắt còn lại là gì?

“ Còn hai con mắt khóc người một con Còn hai con mắt một con khóc người”...

Thoáng nghe, tôi tưởng như là người có hai con mắt đang khóc cho người chỉ còn một con mắt, hay là một người mắt sáng đang mở từ tâm thở than cho những người mắt mờ. 

Nhưng không, nếu vậy thì đâu còn gì là hay. Đơn giản quá, hẳn không phải là điều mà một nhạc sĩ- triết gia như TCS gởi gắm.

Tôi nhẩm đi nhẩm lại ca từ. À, thật là “đảo điên điên đảo” từ.

Một con mắt đang khóc cho người hai con mắt, hay là khóc cho TCS.

Con mắt còn lại là mắt gì?

“Con mắt còn lại nhìn đời là không Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng... “Con mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm Nhìn em ra đi lòng em xa vắng Con mắt còn lại là đêm tối tăm Con mắt còn lại là đêm nồng nàn.” “Con mắt còn lại nhìn một thành hai” 

À, thì ra “con mắt còn lại” là con mắt thứ ba, Con mắt của Tâm như, của Trí Huệ. Con mắt còn lại sâu thẳm, nhìn cuộc đời một cách rõ ràng, thấy mọi sự đều như không. Con mắt còn lại là con mắt từ tâm!

Con mắt còn lại thấy điều gì?

Con mắt sáng rõ nhìn thấy đời người lúc lên lúc xuống, lúc sang giàu lúc đói hèn; người đời khi yêu ghét không còn kiểm soát chính mình; thấy cuộc tình và vạn sự đến rồi đi, tưởng chắc chắn, nằm “trong hai tay” rồi lại bỗng nhiên “biến mất”!

“Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp.” ... “Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ.” “Cuồng điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ” ... “Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai Tình trong hai tay một hôm biến mất.”

Ôi! chúng ta, những người trần mắt thịt, còn đầy đủ hai con mắt [nhục nhãn], tự cho mình là sáng suốt. Thế mà, cặp mắt sáng đó lại không nhận thấy sự vô thường của cuộc sống, lúc lên lúc xuống mà luôn “lăn theo”, lại không nhận thấy sự hư ảo của tình yêu, mà lại điên cuồng bám víu. 

Cho nên:

Con mắt còn lại bùi ngùi, thở dài buồn bã cho đời người.

“Con mắt còn lại nhìn mây trắng bay “Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài.”

Và vì thế, tác giả đã lặp đi lặp lại trong bản nhạc của mình hai câu: 

“ Còn hai con mắt khóc người một con Còn hai con mắt một con khóc người”.

Mong rằng những giọt nước mắt nhỏ xuống đó, làm con người trong ta lắng mình, hồi tâm, sáng suốt hơn trong cuộc sống đầy đau thương mất mát này!

Đến đây, tôi cũng thưởng thức xong ly cà phê sáng. Bài hát này nhịp điệu nghe vui tai, ca từ nghe “hay hay”, mà sao ý nghĩa buồn thế! Cái này có phải là một cái gì đặc trưng của nhạc Trịnh, trong cái vui có nỗi buồn, trong nỗi buồn có niềm vui hay không? Tôi cũng không dám chắc.

Mạc Đình. 12/2020.

[PS:

Mặc dù chữ “Còn hai con mắt khóc người một con” đã từng xuất hiện trong bài thơ “Mắt buồn” của nhà thơ Bùi Giáng xuất bản 1963:

“Bỏ trăng gió lại cho đời Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa Bỏ yêu, bỏ bóng ma Bỏ hình hài của tiên nga trên trời Bây giờ riêng đối diện tôi Còn hai con mắt khóc người một con”.

Nhưng ta có thể thấy là ý nghĩa của hai bài này khác hẳn nhau.]

CÒN HAI CON MẮT KHÓC NGƯỜI MỘT CON là câu thơ hay của Bùi Giáng trong bài “Mắt Buồn”, được Trịnh Công Sơn trích ra để làm nên bài hát CON MẮT CÒN LẠI nên càng được nhiều người biết tới.

Thu Trang [Công Thị Nghĩa] [@atabook] * Thân Tri sưu tầm

Từ lâu tôi và nhiều người hiểu “khóc người một con” cũng có nghĩa là còn con mắt kia không khóc hoặc để khóc cho người khác. Hiểu thế thấy nó độc đáo và hay. Hôm nay đọc trên FB của “Nhà Văn thụyvi” thì thấy bà “bật mí” một chi tiết bất ngờ: “người một con” lại là người phụ nữ đã có một con: “Lâu nay, ít người biết rằng thi sĩ Bùi Giáng viết câu thơ: “Còn hai con mắt khóc người một con” là viết cho Hoa hậu Thu Trang [ tên thật là Công thị Nghĩa, người đoạt giải Hoa Hậu đầu tiên, cũng là người bên kia nằm vùng với bí danh Tư Nghĩa ]”. Và bà viết tiếp: “Bùi Giáng say mê Thu Trang khi hoa hậu đã có đứa con trai ngoại hôn với một người đàn ông có gia đình là đạo diễn Tống Ngọc Hạp, vào năm 1957 . Ý nghĩa “Còn hai con mắt” ở đây là hai mắt của Bùi Giáng và “khóc người một con ” là khóc Hoa hậu Thu Trang có một đứa con. Hoa hậu Thu Trang còn là nàng thơ của Bùi Giáng trong nhiều bài thơ khác in ở tập Mưa Nguồn xuất bản khoảng năm 1962”.

Đọc lại bài “Mắt Buồn” tôi mới giật mình thấy 1 câu thơ có 2 từ TRANG và THU, đó là câu “Ấn TRANG sử lịch THU triền miên trôi”. Điều này chứng tỏ Nhà Văn thụyvi nói đúng. Tôi có biết và có gặp bà Thu Trang cách nay gần 30 năm, lúc ấy bà từ Pháp về, và vẫn đẹp như một câu thơ trong bài thơ khác của Bùi Giáng: “Trời bên kia – nhan sắc ở bên này”. Như vậy là Bùi Giáng đã khóc cả hai con mắt cho người đẹp đã một con.

Và câu thơ CÒN HAI CON MẮT KHÓC NGƯỜI MỘT CON hiểu cách nào cũng thấy hay, nhưng giờ thì tôi thấy nó hình như hay hơn. Cám ơn Nhà Văn thụyvi, và mời bạn đọc lại bài thơ MẮT BUỒN của Bùi Giáng:

[Dặm khuya ngất tạnh mù khơi NGUYỄN DU]  Bóng mây trời cũ hao mòn Chiêm bao náo động riêng còn hai tay Tấm thân với mảnh hình hài Tấm thân thể với canh dài bão giông Cá khe nước cõng lên đồng Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một Giêng Tạ từ tháng Chạp quay nghiêng Ấn trang sử lịch thu triền miên trôi Bỏ trăng gió lại cho đời Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa Bỏ người yêu, bỏ bóng ma Bỏ hình hài của tiên nga trên trời Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con.

Đọc thêm: Đầu năm 1957, bà cùng đạo diễn Tống Ngọc Hạp mang theo bộ phim Lục Vân Tiên sang Nhật để làm hậu kỳ. Đồng thời, cũng là để tham gia Đại hội Điện ảnh châu Á đang được tổ chức tại đây. Gần một tháng ở Nhật cùng với đạo diễn Tống Ngọc Hạp, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, giữa bà và đạo diễn nảy sinh tình cảm. Chuyện gì đến cũng đến, bà có mang.

Nguyễn Trọng Tạo

[Nguồn : dutule.com]

Bùi Giáng sinh năm 1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam và mất năm 1998 tại Sài Gòn. Ông là một nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học xuất hiện và nổi danh trên văn đàn miền Nam từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ 20 như một hiện tượng dị biệt. Ông viết nhiều thể loại từ khảo luận, tùy bút đến nghiên cứu triết học đông tây kim cổ thật uyên bác. Nhưng những gì đọng lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng độc giả hôm nay vẫn chính là thơ, với hàng loạt tập thơ như: Mưa nguồn [1962], Lá hoa cồn [1963], Ngàn thu rớt hột [1963], Bài ca quần đảo [1963], Sa mạc trường ca [1963]…

“ Còn hai con mắt khóc người một con”. Đó là câu thơ cuối của bài thơ “Mắt buồn” mà sinh thời ông viết tặng khi người đẹp Thu Trang đăng quang hoa hậu ở Sài Gòn vào năm 1963.

Câu thơ có sức lay động và ám ảnh tâm can người đọc này sau đó được cố nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn đưa vào làm lời mở đầu cho ca khúc nổi tiếng “Con mắt còn lại”.

 Bài thơ “Mắt buồn” được cố thi sĩ Bùi Giáng viết bằng thể thơ lục bát truyền thống, nhưng đầy biến hóa và mới mẻ về cấu tứ, ngôn từ: “Bỏ trăng gió lại cho đời/ Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa/ Bỏ người yêu, bỏ bóng ma/ Bỏ hình hài của tiên nga trên trời/ Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”.

Nhiều nhà lý luận, phê bình văn học nhận xét thơ ông ngay từ lúc khởi đầu phát tiết đã có sự khác biệt đến kỳ bí. Ông là thi sĩ tái dựng thể thơ lục bát truyền thống trong bối cảnh của thời đại hiện sinh.

 Sở dĩ ông rất kỳ công trong việc làm mới thể thơ truyền thống dân tộc này, vì theo ông: “Lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất”.

Thơ ông dường như luôn được thăng hoa sáng tạo ra trong trạng thái chông chênh giữa thực và mộng mị. “ Hỏi tên? rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê? rằng mộng ban đầu rất xa/ Gọi tên là một hai ba/ Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm”.

Cố thi sĩ "di biệt" Bùi Giáng [phải] và cố nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn trong một lần gặp gỡ đàm luận về thi ca, âm nhạc

Bốn câu thơ ấy, theo nhận xét của Thụy Khuê là đã gói trọn bản chất sáng tạo thi ca và tư tưởng của Bùi Giáng tiên sinh. Và đây: “ Hỏi rằng: Người ở quê đâu?/ Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”.

Với ông dường như không có khái niệm về tên tuổi, quê quán. Ông một đời phiêu bồng rong chơi giữa cõi ta bà trần ai. “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên, đi xuống đã đời du côn”. Có vẻ như ông rất tếu táo, hóm hỉnh, đùa cợt với đời, coi cuộc đời là “cõi tạm” là “quán trọ trần gian”. Nhưng thực ra trong cõi thẳm sâu của tâm hồn ông không phải vậy.

Ông luôn đau đáu chiêm nghiệm và làm thơ về sự sinh tồn về những phù du dâu bể trong kiếp người trần ai hữu hạn. “ Trần gian bất tuyệt một lần/ Nghe triều biển lục xa dần non xanh” và “Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau”.

 Ông là một thi sĩ nói nhiều về tình yêu và thân phận con người. Ông nói về những kiếp người khốn cùng với những câu thơ tràn đầy sự cảm thông chia sẻ và như thể ông cũng là người trong cuộc vậy. “Anh cứ tưởng đầu đường thương xó chợ/ “Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau”.

Những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, tôi vẫn thỉnh thoảng gặp ông lai rai uống bia ở Văn Nghệ quán, số 81 Trần Quốc Thảo, quận 3, TP.HCM. Ông tới quán bằng xích lô, với trang phục thường được chắp vá bằng nhiều mảnh vải sặc sỡ đủ màu sắc.

 Những lần như thế bao giờ ông cũng mua vài lít bia hơi mời bác xích lô cùng đối ẩm, để rồi kết thúc cuộc nhậu lại chở ông về nhà. Ông uống không nhiều và cũng rất kiệm lời.

Nếu có ai trong đám văn nghệ sĩ chúng tôi gợi chuyện thơ phú, cao hứng lắm ông mới đọc vài câu. Đó thường là những câu thơ ông vừa ứng tác tức thì. Ông là người có biệt tài xuất khẩu thành thơ.

Những câu thơ xuất thần như ma xui quỷ khiến ấy, nghe ông đọc cứ ám ảnh day dứt tâm can: “ Ngày mai vĩnh biệt cõi đời/ Trùng lai có lẽ cuối trời biệt ly”; “Thưa rằng: Ly biệt mai sau/ Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân”; “Biết bao dâu bể nổi chìm/ Đôi lần con mắt lim dim nhớ gì”.

Là người dị biệt không bình thường, ông rất ít khi được sống trong trạng thái thật tỉnh táo và thanh thản. Nhưng trong những khoảng khắc hiếm hoi của sự tỉnh táo ấy ông là một thi sĩ thật tinh tế trong quan sát và cảm nhận về thiên nhiên cỏ cây, hoa lá quanh mình.

Ông cảm nhận được cả cỏ cây dậy thì sinh nở dưới trời xuân vô lượng: “ Em đi cây cỏ dậy thì/ Ngày xuân vô lượng cùng đi lên đường/ Trùng lại giây phút phố phường/ Niềm vui quá khứ phu thường hồi sinh” [Cây cỏ dậy thì]. Trong mắt ông cỏ hoa cũng có hồn có vía: “Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng/ Hồn du mục cõi xa gần hử em” [Cỏ hoa hồn du mục]. Thơ ông không thách đố người đọc bằng những ngôn từ bí hiểm. Nhưng cảm nhận được thơ ông thật không dễ.

 Những câu thơ mang đậm tính triết lý Phật giáo của ông dường như đã được viết ra từ trong sự tột cùng của cô đơn và đau khổ, từ sự nhận chân về hư vô, về hữu hạn. “Cũng vô lý như lần kia với lá/ Con chim bay để lại nhánh khô cành/ Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ/ Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh” [Hư vô và vĩnh viễn]. Nhiều người gọi ông là “thi sĩ Bồ Tát” kể cũng không ngoa ngôn.                                          

LƯƠNG ĐỊNH

Video liên quan

Chủ Đề