Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường giai đoạn hiện nay

1. Đặt vấn đề

Tại Điều 2, Chương 1 Luật Giáo dục [2005] xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận học sinh [HS] có những hành vi tự phát thiếu văn hóa, lệch chuẩn, phi đạo đức do không kiềm chế được bản năng như Nghị quyết Trung ương 2, khóa XIII [1996] đã nêu: “Đặc biệt đáng lo ngại một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bảo lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác quản lý hoạt động giáo dục đạo đức [GDĐĐ] trong trường học. Vì vậy, việc GDĐĐ cho HS nói chung và HS trung học cơ sở [THCS] nói riêng trong nhà trường phải luôn được coi trọng. Đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa [XHCN] không chỉ là thành phần cơ bản của giáo  dục [GD] mà là mục đích của toàn bộ công tác GD thế hệ trẻ. Công tác GD phải đặt sự chăm lo bồi dưỡng đạo đức cho HS, coi đó là căn bản, cái gốc cho sự phát triển nhân cách. Khi bàn về nhân cách của việc học trong chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Bây giờ phải học; học để yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức”.

Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả đã tiến hành nghiên cứu hoạt động GDĐĐ  học sinh trường THCS Nguyễn Hiền nhằm nêu lên thực trạng và đề xuất biện pháp để góp phần nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS một cách hiệu quả.

2. Nội dung và kết quả nghiên cứu

2.1. Một số khái niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức

Theo quan điểm Mác- Lênin thì đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ lao động, từ yêu cầu thực tiển của cuộc sống cộng đồng xã hội. Đạo đức phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Mỗi phương thức sản xuất này làm nãy sinh một dạng đạo đức tương ứng và do vậy đạo đức có tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc. Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, những quy định, chuẩn mực nhằm hướng con người tới: Chân, thiện, mỹ, chống lại giả, ác, xấu,… Các chuẩn mực đạo đức xuất hiện do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định. Bất kỳ trong thời đại nào, đạo đức con người cũng được đánh giá kheo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc xã hội.

- Đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh:

Một trong những yêu cầu quan trọng của Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là phải làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong khi đó, thế hệ sinh viên, HS Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, nhân tố quan trọng góp phần quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên [trong đó có sinh viên, học sinh] và xác định “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Vì thế, bên cạnh việc coi trọng GD chuyên môn, việc giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm xây dựng đội ngũ trí thức tương lai vừa “hồng” vừa “chuyên”, kế tục các thế hệ cha anh trong sự nghiệp cách mạng mới là yêu cầu cơ bản lâu dài và cấp bách.

Như vậy, GDĐĐ công dân trong HS theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, nguyên Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng từng khẳng định: "Học sinh, sinh viên, những thanh niên ưu tú có tri thức sẽ là lực lượng kế thừa và phát huy những thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc, tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam”, cùng với GD thể chất, văn hóa, GD chuyên môn, GDĐĐ sẽ góp phần hoàn thiện các mặt: nhân, trí, dũng, mỹ cho sinh viên, HS Việt Nam nói riêng, thanh niên Việt Nam nói chung, để không ngừng kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của nước nhà!

 Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, khái niệm đạo đức cũng thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các giá trị đạo đức củ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị đạo đức mới.

Theo quan điểm của Đảng và nhà nước ta, các giá trị đạo đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc với su hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao động, sáng tạo tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Vấn đề GDĐĐ được Đảng và nhà nước đưa ra phương châm “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề”; trong đó chú trọng GD con người Việt Nam vừa phát triển toàn diện, vừa phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; phát triển năng lực và phẩm chất một cách hài hòa giữa đức, trí, thể, mỹ; “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”; sống tốt và làm việc có hiệu quả.

2.2. Giáo dục đạo đức cho HS THCS

2.2.1. Giáo dục đạo đức

            Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt, “Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục”.

            GDĐĐ là quá trình hai mặt, mặt tác động của nhà sư phạm và mặt tiếp nhận tích cực của người được GD, đó là sự chuyển hóa những nhu cầu của xã hội thành những phẩm chất bên trong của cá nhân.  GDĐĐ được thực hiện trong gia đình, nhà trường và trong môi trường xã hội, với những hình thức đa dạng và những phương pháp phong phú, trong đó GD trong nhà trường có một vị trí đặc biệt quan trong. GDĐĐ là một bộ phận hợp thành của hoạt động GD con người đạt tới nhân cách hài hòa, toàn vẹn, bao gồm: GD kiến thức đạo đức; GD thái độ đạo đức; GD kỹ năng – hành vi đạo đức.

            Bản chất GDĐĐ là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể GD và yếu tố tự GD của HS, giúp HS nhận thức đúng, tạo lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc sống phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Trong cuộc sống, trong hoạt động, thông qua giao lưu nhân cách con người mới được hình thành và phát triển.

            GDĐĐ là một bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, thói quen, và hình thành ở người học các phẩm chất đạo đức như lòng nhân ái, yêu tổ quốc, yêu lao động, tính trung thực, khiêm tốn, tự trọng, dũng cảm,… GDĐĐ gắn chặt với tư tưởng chính trị, GD pháp luật, GD trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động hướng nghiệp.

            Ngoài việc nâng cao nhận thức các giá trị đạo đức, GDĐĐ còn góp phần tạo ra những giá trị mới, xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, hình thành quan niệm sống tích cực cho HS. Hơn nữa, GDĐĐ góp phần khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức, vô văn hóa tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản văn hóa trong mỗi con người. GDĐĐ còn có tác dụng truyền lại cho thế hệ sau những giá trị đạo đức truyền thống mà từ đời này qua đời khác chúng ta đã dầy công xây dựng và giữ gìn. Thông qua hoạt động GD sẽ giúp cho HS nhận thức đầy đủ giá trị của truyền thống đạo đức dân tộc, ý nghĩa to lớn của chúng trong đời sống hiện thực, lòng nhân ái và tính nhân văn sâu sắc đã được lưu giữ, bảo tồn và lắng đọng trong cốt cách con người và nền văn hóa Việt Nam.

2.2.2. Nội dung GDĐĐ cho HS THCS

            Nội dung  GDĐĐ cho HS rất rộng, bao quát nhiều vấn đề thuộc nhân sinh quan mà tựu chung nhất là xoay quanh trục "chân - thiện - mỹ" và truyền thống văn hóa dân tộc, địa phương. Nội dung GDĐĐ căn cứ vào các nhóm chuẩn mực đạo đức của xã hội [về nhận thức tư tưởng, chính trị, về nghĩa vụ công dân, hướng vào những đức tính hoàn thiện bản thân, hướng vào tính nhân văn, lợi ích cộng đồng, xây dựng môi trường sống] bám sát vào nội dung chương trình các môn học và tổ chức các hoạt động GD khác kết hợp với GD văn hóa, truyền thống dân tộc, địa phương.

Có thể xác định hệ thống chuẩn mực đạo đức theo năm nhóm phản ánh mối quan hệ chính mà con người phải giải quyết sau đây:- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị [tư tưởng sống của cá nhân phù hợp với yêu cầu đạo đức xã hội]; - Nhóm những chuẩn mực đạo đức hướng vào sự tự hoàn thiện bản thân; - Nhóm những chuẩn mực đạo đức công dân thể hiện quan hệ với mọi người, với dân tộc khác: Đó là: Nhân nghĩa cụ thể là biết ơn [tổ tiên, cha mẹ, thầy cô, người có công với dân, với nước và kính trọng người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giúp đỡ những người có nhân cách]; yêu thương, khoan dung, vị tha, hợp tác [đồng cảm, biết chia sẻ, đoàn kết, hữu nghị]; bình đẳng; lễ độ, lịch sự, tôn trọng mọi người; - Nhóm những chuẩn mực đạo đức công dân thể hiện quan hệ đối với công việc; - Nhóm chuẩn mực liên quan đến xây dựng môi trường sống [môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa - xã hội

Những giá trị trên có liên quan đến nghĩa vụ của công dân trong việc xây dựng môi trường sống của con người bao gồm: gia đình, cộng đồng nơi ở, đoàn thể cơ sở của mỗi công dân như Đảng, Đoàn, Đội, các Hội quần chúng, địa phương, quốc gia, quốc tế.

 Để giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao, chúng ta cần GDĐĐ với những nội dung cơ bản sau:- GD tri thức đạo đức; - GD tình cảm đạo đức: - GD lí tưởng đạo đức; - GD giá trị đạo đức.

           2.2.3. Phương pháp GDĐĐ cho HS THCS

Phương pháp GDĐĐ cho HS là cách thức tác động của các nhà GD lên đối tượng GD để hình thành cho đối tượng GD những chuẩn mực đạo đức cần thiết phù hợp với đạo đức xã hội hiện đại.

Phương pháp GDĐĐ cho HS THCS rất phong phú, đa dạng, kết hợp giữa các phương pháp truyền thống và các phương pháp hiện đại, được thể hiện ở các phương pháp như:- Phương pháp đàm thoại;- Phương pháp nêu gương; - Phương pháp đóng vai; -Phương pháp trò chơi; - Phương pháp dự án;…Thực hành nhiệm vụ này người học được rèn luyện tính tự lập cao, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch hành động đến việc thực hiện dự án với nhóm bạn bè, tự kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.

           Phương pháp GDĐĐ tác động trực tiếp đến kết quả GDĐĐ, nên cần có sự phối hợp và kết hợp các phương pháp GD khác nhằm tác động đến ý thức tình cảm, cung cấp tri thức xây dựng niềm tin về đạo đức cho HS trong quá trình GD.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động GDĐĐ

           HS THCS là lứa tổi thiếu niên, đây là lứa tuổi  đang phát triển có nhiều biến đổi trong đời sống tâm lý và sinh lý chuyển tiếp từ tuổi thiếu nhi sang tuổi thiếu niên. Sự chuyển tiếp này tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc thù về mọi mặt. Sự biến đổi về cơ thể, sự phát triển ý thức, sự thay đổi các mối quan hệ với người lớn và các bạn cùng lứa tuổi, sự thay đổi hoạt động học tập, hoạt động xã hội,… đã làm xuất hiện những biểu hiện bắt đầu của tuổi người lớn. Theo đó, vai trò trách nhiệm của nhà trường, gia đình và xã hội trong GDĐĐ cho HS trong giai đoạn này cực kỳ quan rọng. Nhà trường với cả một hệ thống GD được tổ chức quản lý chặt chẽ là yếu tố quan trọng trong việc GDĐĐ cho HS, nhằm đưa HS theo các chuẩn giá trị tiến bộ, đúng đắn, theo định hướng XHCN, với hệ thống chương trình khoa học gia đình với những mối quan hệ mật thiết là nới nuôi dưỡng các em từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành. Gia đình là cội nguồn hình thành nhân cách cho HS. “Nề nếp gia phong”, “Truyền thống gia đình” là những điều rất quan trọng mà người xưa đã từng nói về GD gia đình. Môi trường xã hội là cộng đồng cư trú của HS từ bạn bè, họ hàng, xóm giềng, khu phố đến các tổ chức đoàn thể xã hội, các cơ quan Nhà nước,… đều ảnh hưởng lớn đến việc GDĐĐ cho HS, và để hình thành nhân cách cho HS cần có phải sự phối hợp thống nhất về GD giữa nhà trường, gia điình và xã hội. Điều này đã trở thành nguyên lý GD cơ bản của nền giáo dục XHCN

2.4. Thực trạng đạo đức và GDĐĐ cho HS trường THCS Nguyễn Hiền

           Theo kết quả khảo sát, nhìn chung, đạo đức của HS là tốt; song vẫn còn một số ít  HS yếu về đạo đức thường có những biểu hiện không tuân theo nề nếp, quy định của nhà trường hoặc trở nên bất hợp tác trong quan hệ cộng đồng. Số HS này nhận thức xã hội lệch lạc hoặc thiếu niềm tin, hoài nghi cuộc sống, không hòa nhập với bạn bè và mọi người xung quanh, thậm chí ngại chia sẽ và tâm sự với người thân trong gia đình. Dù chỉ chiếm 0,4% tổng số HS nhưng số HS này đã ảnh hưởng không nhỏ, dễ lây lan tính tiêu cực trong tập thể HS.

           Trong trườn, GV chủ nhiệm và GV bộ môn đều có ý thức coi trọng việc phối hợp với nhau, với cha mẹ HS, với lãnh đạo nhà trường để GD HS cá biệt. Việc GDĐĐ thông qua bài giảng được đa số GV bộ môn quan tâm hàng đầu.

           Phương pháp GDĐĐ được GV sử dụng thường xuyên nhắc là: Nhắc nhở, động viên; phát động thi đua; khen thưởng, kỷ luật; phê phán những hiện tượng tiêu cực. Các phương pháp GDĐĐ ít được sử dụng hoặc có sử dụng nhưng hiệu quả không cao là: Tổ chức các hình thức sinh hoạt tập thể để thực hiện các nội dung GD; nói chuyện, toạ đàm về đạo đức,…

           Thực tế, trường đã có nhiều cố gắng trong công tác GDĐĐ, nhưng các hình thức GDĐĐ còn chưa sâu, còn nặng về hình thức chưa thật sự thu hút HS tự tham gia để rèn luyện mình và chưa thật sự nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho HS.

           2.4.2. Kế hoạch hoá công tác GDĐĐ

           Kết quả khảo sát cho thấy nhà trường đã chủ động xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho HS trong cả năm học, trong các hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn, nhưng ít xây dựng kế hoạch tuần, kế hoạch tháng. Mặc dù trên thực tế, các kế hoạch GDĐĐ chủ yếu được lồng ghép trong kế hoạch công tác của mỗi GV, nhưng nhìn chung vẫn còn sơ sài, biện pháp và hình thức còn nghèo nàn, chưa sinh động, chưa chú trọng đến cơ chế phối hợp trong việc GDĐĐ.

           2.4.3. Hình thức phối hợp, kết hợp giữa nhà trường, gia đình - xã hội trong GDĐĐ

           Công tác đa dạng các hình thức phối, kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác GDĐĐ là hết sức cần thiết. Qua trưng cầu ý kiến cho thấy, lãnh đạo nhà trường đã quan tâm đến việc đa dạng các hình thức phối, kết hợp với cha mẹ HS và ban đại diện cha mẹ HS, nhưng lại yếu trong việc phối, kết hợp với các cơ quan, đoàn thể khác ở địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế việc phối, kết hợp với gia đình và ban đại diện cha mẹ HS chủ yếu cũng chỉ thực hiện qua các đại hội đầu năm học và kết thúc học kỳ 1 để giải quyết vấn đề tài chính và các HS cá biệt tổ chức các hoạt động GD ở địa phương; bồi dưỡng kiến thức về GDĐĐ cho cha mẹ HS chưa được quan tâm và bàn đến.

2.5. Biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS

           2.5.1. Nâng cao nhận thức về GDĐĐ cho CB, GV, HS và cha mẹ HS

           Nâng cao nhận thức về GDĐĐ và quản lý GDĐĐ  cho HS có vai trò quan trọng, là sự khở đầu cho hoạt động đạt hiệu quả cao trong công tác này. Thời gian qua, nhận thức của CB, GV, HS và cha mẹ HS về đạo đức, GDĐĐ và quản lý GDĐĐ có bước chuyển biến đáng kể nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Do đó, trong bối cảnh hiện nay cần nâng cao hơn nữa năng lực nhận thức; tăng cường hơn nữa ý thức, trách nhiệm, nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ quản lý và GV, cũng như trong hoạt động GD; đồng tâm hợp lực tạo sức mạnh thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của HS. Đối với HS, việc nâng cao năng lực nhận thức, củng cố và phát huy khả năng tự ý thức, tự GD sẽ góp phần giúp cá em chủ động, tự giác, tích cực vươn lên trong học tập và rèn luyện đạo đức. Đối với cha mẹ HS, việc nâng cao nhận thức về GDĐĐ là hết sức cần thiết.

           2.5.2. Tăng cường tính kế hoạch trong công tác GDĐĐ cho HS THCS

           Kế hoạch hoá công tác GDĐĐ cho HS có vai trò rất quan trọng giúp hiệu trưởng chủ động định hướng trước các nội dung, biện pháp, thời gian, cơ chế phối hợp để thực hiện có hiệu quả công tác GDĐĐ HS trong suốt năm học; tránh sự tùy tiện, cảm tính và bị động trong hoạt động GD của nhà trường.

           Muốn đạt hiệu quả trong công tác quản lý GDĐĐ cho HS, hiệu trưởng cần lập kế hoạch riêng cho công tác này. Kế hoạch phải dựa trên cơ sở nội dung GDĐĐ trong chương tình môn Giáo dục công dân, chương trình GD ngoài giờ lên lớp, đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuối HS THCS; những đặc điểm thực tiễn của đơn vị; thực trạng đạo đức HS.

           2.5.3. Lựa chọn và bồi dưỡng năng lực thực hiện đổi mới phương pháp GDĐĐ cho đội ngũ GV chủ nhiệm

           GV chủ nhiệm đóng vai trò chủ đạo, tổ chức điều khiển và lãnh đạo quá trình hình thành nhân cách ở HS phù hợp với mục tiêu GD THCS, GV chủ nhiệm thay mặt hiệu trưởng quản lý toàn diện hoạt động GD của lớp, trực tiếp GD HS, trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra đánh giá quá trình rèn luyện phấn đấu tu dưỡng của từng HS trong lớp và ảnh hưởng tới quá trình phát triển nhân cách của HS, GV chủ nhiệm phải có đủ “Tâm, đức, tài, trí”; có năng lực sư phạm nắm bắt tâm lý HS, hoàn cảnh HS để có những biện pháp phù hợp, có hiệu quả, GV phải là tấm gương tạo được niềm tin đạo đức trước HS.

           2.5.4. Quản lý công tác thi đua, khen thưởng và chuẩn hoá công tác đánh giá đạo đức cho HS

           Xây dựng tiêu chí, phương pháp đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức HS một cách hợp lý, khoa học nhằm đánh giá chính xác, công bằng kết quả rèn luyện của HS, từ đó giúp HS nhận thức đầy đủ về bản thân phát huy mặt tích cực, khắc phục những khuyết điểm để không ngừng tiến bộ. Động viên, khuyến khích, khen thưởng các CB, GV và HS thực hiện có hiệu quả công tác GDĐĐ và rèn luyện đạo đức.

           2.5.5. Đa dạng các hình thức phối, kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội.

           GDĐĐ cho thế hệ trẻ là trách nhiệm của toàn xã hội, do đó chủ yếu phải tiến hành đa dạng các hình thức phối, kết hợp các lực lượng GD, đực biệt là ba lực lượng chủ chốt [nhà trường, gia đình và xã hội] trong công tác GDĐĐ cho HS; trong đó, nhà trường giữ vai trò trung tâm, nồng cốt. Do vậy, hiệu trưởng phải là người thật sự chủ động trong sự phối hợp, liên kết với các lực lượng để bàn bạc nội dung, hình thức, biện pháp,… thực hiện GDĐĐ cho HS.

           2.5.6. Các biện pháp hỗ trợ

           - Xây dựng công tác tự quản của HS trong các hoạt động tập thể và vui chơi giải trí.

           Hình thành thói quen tự quản cho HS. Tự quản là nền móng của tự ý thức và tự GD của mỗi HS. Từ nội dung, kế hoạch của nhà trường, của GV mà trở thành ý thức tự giác của mỗi HS trong tập thể, vì mục đích chung của tập thể.

           Tập thể lớp chủ động triển khai kế hoạch của nhà trường, hoạt động tự quản chấp hành nội quy, tự xây dựng chương trình học tập rèn luyện đạo đức và vui chơi giải trí, hình thành thói quen hành vi đạo đức chuẩn mực, biết làm chủ bản thân.

           - Xây dựng và phát triển môi trường sư phạm nhằm thực hiện tốt công tác quản lý GDĐĐ cho HS.

Tạo môi trường sư phạm bao gồm cảnh quan cảu nhà trường, nề nếp của HS, GV, các mội quan hệ giao tiếp giữa thầy với thầy,  giữa thầy với trò, giữa trò với trò,…là môi trường thuận lợi để triển khai và thực hiện tốt công tác GDĐĐ cho HS.

3. Kết luận

Công tác GDĐĐ cho HS ở trường thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng trân trọng cần tiếp tục phát huy và làm tốt hơn nữa; tuy nhiên, quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS là một quá trình phức tạp,  lâu dài đòi hỏi phải có sự tham gia của toàn xã hội; hiệu quả của công tác GD nói chung, GDĐĐ nói riêng phụ thuộc bỡi rất nhiều điều kiện và chi phối bỡi nhiều yếu tố. Để góp phần khắc phục những hạn chế trên, nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS THCS, tác giả đã đề xuất các biện pháp cụ thể. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Do đó, phải thực hiện một cách đồng bộ, nhất quán không xem nhẹ một biện pháp nào trong suốt quá trình GDĐĐ cho HS. Trong quá trình thực hiện, cần điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế của từng trường, thương xuyên giám sát, kiểm tra và giải quyết kip thời các vướng mắt khi thực hiện./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương [2013], Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tyjao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hương xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tê”

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo [2007], Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông có nhiều cấp học [Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/04/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB giáo dục TP. Hồ Chí Minh

3. Chỉ thị của Bộ Giáo dục và đào tạo về “Tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên ” [Ban hành số 71/2008/ CT- BGDĐT ngày 23 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT].

4. Đặng Quốc Bảo [2014], “Kiến tạo mô hình nhà trường thực hiện giáo dục đạo đức - pháp luật - lối sống/ nền nếp cho thế hệ trẻ trong bối cảnh hiện nay”, Kỷ yếu Xây dựng mô hình quản lý trường học trong bối cảnh đổi mới giáo dục

5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB sư phạm Hà Nội năm 2016.

6. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam [2004], Luật Giáo dục năm 2005- sửa đổi, bổ sung 2009, NXB Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

7. Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng [2011], Đạo đức học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

         8. Phạm Khắc Chương [2004], Rèn luyện ý thức công dân, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.

Video liên quan

Chủ Đề