Đề xuất các biện pháp để phòng chống ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ {{infoCompany.name}}

Chịu trách nhiệm chính: {{infoCompany.tenGiamDoc}} - Giám đốc Trung Tâm 

Giấy phép số:15/GP-STTTT do Sở Thông tin Truyền thông Quảng Ninh cấp ngày 21/09/2018

Địa chỉ: {{infoCompany.address}}

Điện Thoại: {{infoCompany.tel}}

Email: {{infoCompany.email}}

TRIỆU CHỨNG VÀ XỬ LÝ NGỘ ĐỘC THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT

Thuốc bảo vệ thực vật [BVTV] có vai trò quan trọng trong việc phòng trừ dịch hại bảo vệ mùa màng và các sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch. Tuy nhiên hầu hết các loại thuốc BVTV có chứa hoạt chất độc với người, vật nuôi và môi trường. Vì vậy các biện pháp đảm bảo an toàn khi sử dụng cũng như cách nhận biết và xử lý ngộ độc thuốc BVTV là điều cần biết của mọi người.

1. Làm thế nào để nhận biết ngộ độc thuốc BVTV

nhiều quốc gia, việc một số lớn người bị ốm, chết vì ngộ độc có liên quan đến thuốc BVTV là điều không thể chấp nhận được. Tuy nhiên nhiều vụ ngộ độc thuốc BVTV thường không được nhận biết vì thiếu hiểu biết về nguyên nhân và triệu chứng bị ngộ độc, kết quả dẫn đến tình trạng nạn nhân bị ốm hoặc tử vong.

Ngoài các vụ ngộ độc do cố tình uống thuốc độc để tự tử, còn lại phần lớn các vụ ngộ độc do vô tình có thể được ngăn ngừa nếu các biện pháp bảo hộ an toàn được thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định. Tuy vậy tình trạng bị ngộ độc vẫn cứ xảy ra, do đó những người vì lý do công việc phải tiếp xúc với thuốc BVTV hoặc người có trách nhiệm quản lý thuốc BVTV cần phải có kiến thức nhất định để nhận biết và xử lý các vụ ngộ độc thuốc BVTV.

Triệu chứng ngộ độc thuốc BVTV có thể xuất hiện hầu như ngay lập tức sau khi bị nhiễm thuốc hoặc có thể được tiềm ẩn trong thời gian dài hàng giờ hoặc thậm chí lâu hơn.

Các nhóm thuốc BVTV khác nhau với đặc tính lý, hoá học cùng phương thức tác động riêng của chúng có thể tạo ra các kiểu ngộ độc khác nhau, do đó tuỳ theo từng loại cần có các biện pháp xử lý khác nhau. Mức độ nguy hiểm [nặng, nhẹ] của các vụ ngộ độc tuỳ thuộc vào độc tính của từng loại thuốc, liều lượng và cách thức bị nhiễm độc cũng như thời gian tiếp xúc với thuốc. Có thể có ba mức độ sau:

  • Triệu chứng và dấu hiệu bị ngộ độc nhẹ, gồm: Đau đầu; buồn nôn; chóng mặt; mệt mỏi; có cảm giác ngứa [rát ] da, mắt, mũi, cổ họng; tiêu chảy; vã mồ hôi; ăn không ngon miệng.
  • Triệu chứng và dấu hiệu bị ngộ độc trung bình: Nôn mửa; mờ mắt; bụng đau quặn; mạch nhanh; khó thở; đồng tử mắt co lại; mồ hôi đầm đìa; cơ run rẩy; quằn quại; mệt mỏi và đau đớn.
  • Triệu chứng và dấu hiệu bị ngộ độc nặng: Co giật; thở yếu; không tỉnh táo; không bắt được mạch. Trong một vài trường hợp có thể bị tử vong.
  • Nếu có ai đó bị tai nạn do thuốc BVTV dội xuống người và nạn nhân ngay lập tức bị hôn mê, lúc này không  còn  gì phải nghi ngờ  và các biện pháp cấp cứu ngộ độc cần phải được tiến hành ngay.

Việc nhận biết các trường hợp ngộ độc nhẹ gặp nhiều khó khăn vì triệu chứng đôi khi khó phân biệt với các ảnh hưởng do căng thẳng thường xảy ra trong cuộc sống.

Nếu ngộ độc không có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng thuốc BVTV, nhưng các biểu hiện bên ngoài của nạn nhân có dấu hiệu nghi ngờ, hoặc có triệu chứng xuất hiện, khi đó nên tham khảo ý kiến của bác sỹ.

Ngộ độc thuốc BVTV có thể bị lầm lẫn với các loại bệnh lý khác như: Cảm nắng, viêm phổi, hen xuyễn, giảm đường huyết, hoặc các bệnh đường ruột ...Do vậy nhất thiết phải được bác sỹ chuẩn đoán chính xác.

Triệu chứng ngộ độc cấp tính nói chung xảy ra trong vòng 12 giờ sau khi nhiễm độc. Nếu triệu chứng xuất hiện muộn hơn [quá 12 giờ] thì nguyên nhân ngộ độc có thể không phải do thuốc BVTV. Tuy nhiên tốt nhất nên đưa nạn nhân đến bác sỹ kiểm tra để có kết luận chính xác. Dấu hiệu và triệu chứng ngộ độc thuốc BVTV thường diễn tiến theo trình tự có thể đoán trước được, do vậy nếu nghi ngờ bị ngộ độc thuốc BVTV cần đưa ngay nạn nhân đến bệnh viện hoặc trạm y tế.

Cần thông báo cho bác sỹ đầy đủ thông tin về thuốc BVTV mà nạn nhân bị ngộ độc, tốt nhất nên mang theo cả chai, gói thuốc còn nguyên nhãn để bác sỹ tham khảo. Đồng thời cần mô tả [nếu có thể] diễn biến xảy ra ngộ độc.

Bác sỹ và nhân viên của bệnh viện, trạm y tế  nên làm quen với trình tự xử lý ngộ độc thuốc BVTV.

Cơ quan quản lý và đơn vị sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV cần hợp tác chặt chẽ với bệnh viện, trạm y tế trong việc cung cấp thông tin cần thiết về thuốc BVTV [độ độc, dạng thuốc, con đường tác động ...]

Mỗi nhóm thuốc BVTV có thể có thuốc giải độc đặc hiệu, các thông tin này cần được ghi rõ trên nhãn chai, gói thuốc. Việc điều trị, xử lý ngộ độc thuốc BVTV cần được các bác sỹ có chuyên môn thực hiện kịp thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.

2. Các kiểu ngộ độc thuốc BVTV

Có hai kiểu ngộ độc thuốc BVTV:

  • Ngộ độc cấp tính: Là hậu quả xẩy ra tức thời khi cơ thể bị nhiễm chất độc.
  • Ngộ độc mãn tính: Là hậu quả của quá trình thường xuyên bị nhiễm độc với liều lượng thấp dưới mức gây ngộ độc cấp tính trong thời gian kéo dài.

Cả hai trưòng hợp ngộ độc cấp tính và mãn tính là hậu quả của việc cơ thể bị nhiễm chất độc qua đường miệng, đường da hoặc đường hô hấp.

  • Qua đường miệng: Có thể là do uống, nuốt phải chất độc, khi đó chất độc xâm nhập vào máu. Các trường hợp chất độc thuốc BVTV xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng thường xẩy ra theo các cách sau: Do cố ý uống, nuốt [tự tử], do dùng miệng thổi đầu vòi bình bơm phun thuốc, ăn uống, hút thuốc trong khi đang sử dụng thuốc hoặc sau khi đã sử dụng thuốc nhưng không tắm rửa sạch sẽ; sử dụng vỏ chai, gói đựng thuốc để chứa thực phẩm, đồ uống ...
  • Qua đường da: Thuốc BVTV được hấp thụ qua da. Trong quá trình sử dụng thuốc BVTV, các phần cơ thể như: tay, chân, mặt, lưng ... nếu không được bảo vệ bằng các dụng cụ bảo hiểm thường dễ bị nhiễm độc.
  • Qua đường hô hấp: Chất độc xâm nhập qua mồm, mũi vào đường hô hấp và vào đến phổi. Dạng thuốc bột mịn có kích thước hạt nhỏ hơn 10 micromét [mm], các dạng thuốc ở dạng sol khí ... thường là thủ phạm của các vụ ngộ độc này. Đồng thời các loại thuốc có tác động xông hơi cũng rất dễ gây ra ngộ độc qua đường hô hấp.

3. Sơ cứu nạn nhân

Sơ cứu nạn nhân là việc làm rất quan trọng. Việc sơ cứu cần được tiến hành ngay trong 5 phút đầu sau khi nạn nhân bị nhiễm độc để xác định xem nạn nhân còn sống hay đã chết. Trong lúc tiến hành sơ cứu cần cử người đến trạm y tế thông báo tình hình để chuẩn bị chữa trị.

Việc sơ cứu thực hiện qua các bước sau:

- Di chuyển nạn nhân ra khỏi khu vực có thuốc BVTV, nới lỏng quần áo nạn nhân để dễ thở.

- Kiểm tra xem nạn nhân còn thở không? Nếu nạn nhân ngừng thở phải làm hô hấp nhân tạo. Trong khi làm hô hấp nhân tạo cho nạn nhân chú ý tránh để mình bị nhiễm độc.

- Ngay lập tức cởi bỏ quần áo nhiễm thuốc của nạn nhân, lau rửa sạch toàn thân nạn nhân với nước sạch và xà phòng. Không dùng bàn chải cứng vì dễ gây xước da nạn nhân, đồng thời phải gội đầu sạch sẽ, cắt móng tay và rửa sạch tay cho nạn nhân.

- Nếu mắt nạn nhân bị nhiễm thuốc BVTV, ngay lập tức phải rửa bằng nước sạch ít nhất trong 15 phút. Nếu chỉ một mắt bị nhiễm thuốc, tránh để dây thuốc dây sang mắt kia. Giúp nạn nhân  mở mắt, cho nước sạch chảy qua nhẹ nhàng. Sau đó để mắt nhắm lại và che một miếng vải mềm sạch. Nhanh chóng đưa nạn nhân đến bệnh viện hoặc trạm y tế gần nhất.

- Nếu uống, nuốt phải thuốc: KHÔNG ĐƯỢC LÀM NÔN MỬA trừ khi:

       Có chỉ dẫn riêng biệt trên nhãn thuốc cần làm nôn mửa ngay.

       Nguyên liệu thuốc BVTV bị uống nuốt phải là một trong số các loại thuốc trừ cỏ  Bipyridylium [Paraquat, Diquat].

       Nguyên liệu thuốc BVTV có giá trị LD50 cấp tính, đường miệng nhỏ hơn 20 mg.

Nếu nạn nhân còn tỉnh táo và khi được chỉ định làm cho nôn mửa, có thể cho ngón tay  vào họng nạn nhân để gây nôn mửa, tránh để nạn nhân cắn vào tay mình.

Không dùng nước muối để làm nôn mửa và KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC CHO BẤT CỨ VẬT GÌ VÀO MỒM NẠN NHÂN ĐÃ BỊ BẤT TỈNH.

Nếu nạn nhân còn tỉnh táo nhưng không có chỉ định làm nôn mửa thì cho nạn nhân uống than hoạt tính dùng trong y học [nếu có sẵn]. Việc ngăn chặn ngộ độc qua đường tiêu hoá có thể được xử lý bằng việc cho uống than hoạt tính vì than hoạt tính có thể hấp thụ hầu hết chất độc, trừ Cyanide .

Chuẩn bị hỗn hợp sền sệt than hoạt tính bằng cách trộn 3 thìa cà phê bột than mịn trong 1/2 cốc nước. Có thể tiếp tục cho nạn nhân uống than hoạt tính nếu cần.

Nếu nạn nhân bị co giật, phải chú ý theo dõi tránh để nạn nhân tự làm tổn thương, thông thường nạn nhân hay cắn phải lưỡi do đó nên cho khăn mùi xoa hoặc miếng vải sạch vào giữa hai hàm răng nạn nhân.

  Để nạn nhân nằm yên tĩnh và giữ ấm cho nạn nhân.

  Nếu nạn nhân bất tỉnh:

  • Để nạn nhân nằm nghiêng nơi thoáng mát. Lau sạch mồm,  mũi  cho nạn nhân.
  • Đảm bảo rằng nạn nhân có thể thở được [cần kéo lưỡi nạn nhân ra để tránh lưỡi tụt vào họng].
  • Giữ nạn nhân nằm nghiêng, đầu thấp hơn bụng.
  • Cần đưa ngay nạn nhân đến bệnh viện và thường xuyên theo dõi nạn nhân.

          Nếu nạn nhân khó thở:

  • Kiểm tra xem liệu mồm, mũi nạn nhân có bị đờm hoặc vật gì làm tắc nghẽn không ? Nếu có, phải làm sạch ngay.
  • Đặt nạn nhân nằm ngửa, nâng cổ nạn nhân để cho mặt ngửa lên. Giữ nguyên tư thế này cho đến khi nạn nhân thở được.

           Nếu nạn nhân ngừng thở:

  • Bằng mọi cách phải làm cho nạn nhân thở được.
  • Làm hô hấp nhân tạo:

Một tay nâng cằm nạn nhân lên, tay kia giữ cho đầu ổn định.

Hít thật sâu, áp mồm vào mũi nạn nhân và từ từ thổi vào cho đến khi thấy ngực nạn  nhân phồng lên. Trong lúc tiến hành phải bịt mồm nạn nhân lại.

Rời khỏi mũi nạn nhân và để nạn nhân thở ra.

Lập lại động tác này 10 lần /phút.

                   Không dừng lại cho đến khi còn có thể cứu sống nạn nhân.

     Khi nạn nhân bắt đầu thở lại, tránh để bị sốc.

4. Điều trị ngộ độc thuốc BVTV

Việc chữa trị ngộ độc thuốc BVTV tuỳ thuộc vào từng loại thuốc, do đó nhãn thuốc và các tài liệu kỹ thuật có liên quan luôn cần thiết đối với bác sỹ. Một ví dụ trong điều trị ngộ độc thuốc BVTV là: Đối với Paraquat và  Diquat,  cả hai là thuốc trừ cỏ gốc Bipyridylium có độc tính cao dễ dẫn đến tử vong nếu uống, nuốt phải và gây bỏng da, mắt nếu bị thuốc tiếp xúc. Trên nhãn chai, gói thuốc phải ghi đầy đủ thông tin về sơ cứu, chữa trị và chất giải độc.

5. Chỉ dẫn về chữa trị ngộ độc thuốc BVTV

5.1   Đối với ngộ độc thuốc thuộc nhóm lân hữu cơ:

Các loại thuốc BVTV thuộc nhóm lân hữu cơ ức chế sự hoạt động của men cholinesteraza.  Atropine là thuốc giải độc nhanh, dùng để cấp cứu nạn nhân. Trong mọi trường hợp ngộ độc nặng cần tiêm thuốc giải độc càng sớm càng tốt, thích hợp nhất là tiêm vào tĩnh mạch [IV]. Tiêm Atropine sulfate  với liều lượng 2 - 4 mg cho người lớn [0,04 - 0,08 mg/kg trọng lượng cơ thể đối với trẻ em] cách nhau 3 - 10 phút cho đến khi thấy nạn nhân hồi tỉnh, được biểu hiện như: đồng tử mắt dãn ra, da dẻ hồng hào dần ... Trong những giờ đầu cấp cứu liều lượng 20 - 80 mg  Atropine sulfate  hoặc liều cao hơn có thể được dùng. Nếu tiêm vào bắp thịt [IM] thì nhất thiết không được tiêm quá liều.

Trong lúc chăm sóc cho nạn nhân hồi phục, có thể dùng thêm Oxime        [chất hoạt hoá cholinesteraza], ví dụ: 2- PAM hoặc P2S [CONTRATHION  - specia], liều 1000 - 2000 mg, tiêm tĩnh mạch [IV] hoặc tiêm bắp [IM] cho người lớn hoặc 250 mg cho trẻ em. Có thể tiêm lặp lại, nếu cần thiết, sau đó 30 phút với 1/2 liều lượng. TOXOGONIN-Merck là chất hoạt hoá cholinesteraza có thể được dùng thay cho 2-PAM hoặc P2S ở liều 250 mg tiêm ven hoặc tiêm bắp cho người lớn, 4 - 8 mg /kg cho trẻ em. Nếu cần thiết tiêm thêm lần 2 sau 1 - 2 giờ. Chất hoạt hoá  cholinesteraza  nên được bổ xung vào cơ thể trong vòng 36 giờ sau khi bị nhiễm độc. Nếu nạn nhân bị co giật có thể điều trị bằng Diazepam [VALIUM- Roche, STESOLID-Dumex] 5-10 mg tiêm ven từng loại riêng rẽ. Nếu cần thiết tiếp tục điều trị cho đến khi hết co giật.

Chống chỉ định dùng morphine hoặc các dẫn xuất khác của opiates, phenothiazines, succinylcholine, xanthine, epinefrine và barbiturates.

Để nạn nhân nơi thoáng gió và theo dõi nhịp thở. Việc làm hô hấp nhân tạo có thể được tiến hành. Theo dõi nạn nhân trong bệnh viện ít nhất 24 giờ. Ngăn ngừa việc mất nước. Nếu thấy cần thiết có thể truyền qua đường ven [tĩnh mạch] dung dịch đường dextroza hoặc fructoza, dung dịch điện phân ... khi được chỉ thị bởi phổ kế điện phân, pH của máu...

Chuẩn đoán ngộ độc thuốc trừ sâu nhóm lân hữu cơ nên được xác định càng sớm càng tốt qua việc xác định hoạt tính men cholinesteraza trong máu tĩnh mạch.

5.2  Đối với ngộ độc thuốc nhóm clo hữu cơ:

Thuốc BVTV thuộc nhóm clo hữu cơ là tác nhân kích thích hệ thần kinh trung ương. Nhiều trường hợp ngộ độc có thể gây nên co giật mà không có triệu chứng ban đầu. Tình trạng co giật có thể xảy ra muộn khoảng 48 giờ sau khi nhiễm độc.

Việc điều trị dựa vào triệu chứng và nên đặt mục tiêu nhằm chống co giật, tạo khả năng hồi phục và đảm bảo đủ ôxy cho mô hoạt động.

Cần đảm bảo sự thoáng khí [nếu cần thiết cho thở ôxy]. Duy trì để phổi hoạt động bình thường, có thể làm hô hấp nhân tạo.  Nếu nạn nhân uống, nuốt phải thuốc cần phải rửa dạ dầy càng sớm càng tốt, tránh để nước vào trong phổi. Sau đó có thể cho nạn nhân uống 3-4 thìa [thìa ăn súp] dung dịch than hoạt tính hoặc sodium sulfate 30%. Không được cho nạn nhân uống sữa, dầu và các loại chất béo khác vì điều này có thể đẩy mạnh sự hấp thụ hoạt chất độc thuộc nhóm clo hữu cơ qua đường ruột. Trong trường hợp uống, nuốt phải thuốc ở dạng nhũ dầu [EC] có thể xuất hiện hơi hoá chất do dung môi còn lưu lại ở đường hô hấp, cần phải được xử lý thích hợp.

Không bao giờ được dùng morphine hoặc các dẫn xuất của morphine và nor-adrenaline vì ảnh hưởng có hại của chúng đến trung tâm hô hấp và vì chúng có thể làm tăng độ nhạy cảm của cơ tim, gây kích thích và tạo nên chứng loạn nhịp tim.

Đơn thuốc dùng để chữa trị tình trạng co giật: Thuốc an thần và thuốc ngủ được dùng để giúp nạn nhân tránh được cơn co giật.

Bảng 5.1: Liều lượng dùng đối với benzodiazepine

Thuốc

Người lớn

Trẻ em

> 12 tuổi

2 – 12 tuổi

12 tuổi

Chủ Đề