Giải vở bài tập Văn 8 bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

1. Bài tập 1, trang 97, SGK.

Trả lời:

Đọc kĩ tác phẩm và những kiến thức trong bài đọc — hiểu để tìm ra những biện pháp biểu cảm đã được tác giả sử dụng cùng tác dụng của các biện pháp đó [chẳng hạn : cách sử dụng biện pháp "giễu nhại" để phơi bày sự phi lí trong giọng điệu dối trá của bọn thực dân, hay lối nói mỉa mai để tỏ thái độ chế nhạo và khinh bỉ trước những lời tuyên truyền bề ngoài mĩ miều nhưng thực chất là trống rỗng và lừa gạt của chúng,... Tất cả đã tạo thành chuỗi tiếng cười châm biếm, đả kích sắc sảo và sâu cay].

2. Bài tập 2, trang 97, SGK.

Trả lời:

Có thể thấy, đoạn trích này chủ yếu là một đoạn văn nghị luận, vì mục đích chính của tác giả là phân tích lẽ phải trái, điều hơn thiệt trong việc "làm Việt luận, học Việt văn". Nhưng tác giả đã nghị luận bằng tấm lòng của một người thầy chính vì tha thiết mong học trò mình trở thành người tốt đẹp mà đau khổ khi phải chứng kiến lối học văn đang làm tổn hại trí tuệ, tâm hồn và nhân cách của các em. Đoạn văn, vì thế, mang sức mạnh của một tình cảm chân thành, đáng quý.

3. Các văn bản sau đây là văn nghị luận hay văn biểu cảm ? Vì sao ?

a] Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn,cửa rộng nhà to mà gian tham xiêm nịnh, bết nghĩa vô lương hút máu mủ của dân để nuôi béo vợ con,, [...] như thế có phải là hạng người hạ lưiP hay không ? Tưởng công chúng cùng đều công nhận vậy [...] Lại nghĩ như những người tiền chôn bạc chứa, buôn to bán lớn, ăn rộng tiêu nhiều mà trong biết có vợ con, ngoài không biết đến xã hội, nghĩ về cách làm giàu thì không thua thiên hạ mà nói đến việc công ích thì mặc kệ quốc dân, như thế có phải là hạng người hạ lưu hay không ? Tưởng công chúng cũng đều công nhận vậy. Hạng người hạ lưu ứong xã hội ây là như thế [...]

Hỡi các người trong hạ đấng xã hội ta ơi, khăn vải, áo nâu, làm thuê làm mướn, cái phận nghèo hèn phải như thế, song không phải như thế là hạ lưu.

Nếu trong hạ đẳng xã hội ta mà có những ai biết thờ cha kính mẹ, yêu nước thương nòi thì tức là người thượng lưu vậy.

[Tản Đà, Thế nào là hạng người hạ lưu trong xã hội, Lược trích từ Tuyển tập Tản Đà ]

b] Người Pháp có Pa-ri, người Anh có Luân-đôn, người Tàu có Thượng Hải... Trong các sách vở, trên các báo chí họ nói đến thành phố của họ một cách tha thiết mến yêu... Ta phải nghe người Pháp nói đến Pa ri, người ở Pa-ri, mới hiểu được sự yêu quý ấy đến bực nào.

Chúng ta cũng có Hà Nội một thành phố có nhiều vẻ đẹp, vì Hà Nội đẹp thật [chúng ta chỉ còn tìm những vẻ đẹp ấy ra], và cũng vì chúng ta yêu mến. Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội, cũng như người Pa-ri chính hiệu yêu mến Pa-ri [...].

Hà Nội có một sức quyến rũ đối với các người ở nơi khác... Ở những hang cùng ngõ hẻm của làng xa, hay Ở những nương mật thẳm trong rừng núi, ban chiều vẫn có nhiều người trông ngóng về một phương trời để cố trông cái ánh sáng mờ của Hả Nội chiếu lên nền mây. Để cho những người mong ước kinh kì ấy, và để cho những người ở Hà Nội chúng ta khuyến khích yêu mến Hà Nội hơn, chúng ta nói đến tất cả những vẻ riêng của Hà Nội, khiến mọi sự đổi thay trong ba mươi sáu phố phường đều có tiếng vang ra khắp mọi nơi.

[Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường]

Trả lời:

Cần đọc kĩ từng văn bản để xét xem : văn bản đó được viết ra nhằm mục đích gì, để đưa ý kiến bàn luận về một vân đề là chủ yếu, hay để biểu lộ cảm xúc trước một điều gì đó là chủ yếu ? Căn cứ vào đó để xác định các đoạn văn đã cho là văn nghị luận hay văn biểu cảm. 

4. Hãy thêm những từ ngừ và những câu văn có sức biểu cảm để làm cho những đoạn văn nghị luận sau đây thêm xúc động.

a] Hai nguồn cảm hứng chính của Vũ Đình Liên là lòng thương người và tình hoài cổ. Có một lần hai nguồn cảm hứng âỷ cùng xuất hiện trong bài thơ "Ông đồ". Hằng năm đến mùa xuân, ông đồ lại ngồi viết thuê bên đường phố. Ông chính là cái di tích của một thời tàn. Bài thơ ấy thật bình dị và cảm động. Nó giống như lời sám hối của bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đã khuất.

b] Tính ham mê cờ bạc là một tính rất xấu, nó lầm cho người ta gặp nhiều thiệt hại và mất cả phẩm giá. Người mắc phải tính xấu ấy khó tránh khỏi sự nghèo khó túng bấn, rồi sinh ra gian lận, vì cờ bạc là một cách ăn chơi tổn hại nhiều tiền. Hoạ là mới có khi được, mà được thì lại tiêu phí hết ngay, còn thua thì nhiều, mà thua mãi thì thành ra công nợ, dẫn đến phải đi ăn xin, trộm cắp, làm những điều xấu. Đã chơi cờ bạc thì không còn danh giá mà thành ra đê tiện. Ta nên giữ gìn, đừng để lây thói xấu đó.

Trả lời:

Có thể tham khảo các đoạn văn sau :

a] Hai nguồn cảm hứng chính của Vũ Đình Liên là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác : "Ông đồ". Ông đồ năm năm đến mùa hoa đào, lại ngồi viết thuê bên đường phố. "Ông chính là cái di tích tiều tuỵ đấng thương của một thời tàn " [lời của Vù Đình Liên]. Ít khi có một bài thơ bình dị và cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết.

[Theo Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam]

b] Tính ham mê cờ bạc là một tính rất xấu, nó làm cho người ta gập nhiều thiệt hại và mất cả phẩm giá. Người mắc phải tính xấu ấy khó tránh khỏi sự nghèo khó túng bấn, rồi sinh ra gian lận điên đảo; vì cờ bạc là một cách ăn chơi tổn hại nhiều tiền. Hoạ là mới có khi được, mà được thì lại tiêu phí hết ngay, còn thua thì nhiều, mà thua mãi thì thành ra công nợ, dẫn đến phải đi ăn mày ăn xin, ăn trộm, ăn cắp, làm những điều hèn hạ, xấu xa. Đã chơi cờ bạc thì còn danh giá gì ! Dẫu ông gì bà gì mà đã ngồi vào đám bạc, thì cũng thành ra đê tiện. Ai cũng gọi là con bạc, đồ cờ bạc. Bởi thế cho nên ta phải giữ gìn, đừng có để lây thói xấu đó.

[Theo Quốc văn giáo khoa thư]

5. Viết một đoạn văn nghị luận để trình bày một trong các luận điểm :

- Việt Nam từ xưa đã là một nước văn hiến.

- Tình thương người chứa chan trong ba khổ thơ cuối của bài thơ Ông đồ.

[Cần chú ý dùng từ, đặt câu sao cho đoạn văn có sức biểu cảm, có thể gây cảm xúc cho người đọc.]

Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận [ngắn nhất]

Soạn Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận ngắn gọn:

I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

Câu 1 [trang 95 sgk ngữ văn 8 Tập 2]:

Từ ngữ biểu cảm

Câu văn cảm thán

hỡi, muốn, phải, nhân nhượng, lấn tới, quyết tâm cướp, không, thà, chứ nhất định không chịu, phải đứng lên, hễ là, thì, ai có, ai cũng phải,…

      + Hỡi đồng bào toàn quốc!

      + Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

      + Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.

b. Tuy nhiên, 2 văn bản đó vẫn được coi là văn bản nghị luận chứ không phải văn bản biểu cảm, vì:

+ Cả 2 văn bản đều nêu luận điểm, trình bày các luận cứ để bàn luận, giải quyết vấn đề, tác động vào nhận thức của người đọc khiến người đọc phân biệt rõ đúng sai, phải trái, để từ đó xác định hành động, lẽ sống,… Thế nên, tuy tràn ngập yếu tố biểu cảm, rất rung động lòng người song ở đây,

+ Yếu tố biểu cảm chỉ đóng vai trò phụ trợ, làm cho lí lẽ thêm phần thuyết phục, giúp cho bài văn nghị luận thêm thuyết phục.

c. Những câu văn ở cột 2 có sức truyền cảm hơn những câu văn ở cột 1 vì ở cột 2 có những từ ngữ bộc lộ thái độ, tình cảm của người viết hơn, giàu chất văn, giàu cảm xúc hơn.

 Câu 2 [trang 96 sgk ngữ văn 8 Tập 2]:

   Thông qua tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ta thấy để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận cần phải đan cài những yếu tố biểu cảm ấy một cách hợp lí.

a. Muốn phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận, người viết cần suy nghĩ đúng, nghĩ sâu về các vấn đề, luận điểm, luận cứ, lập luận,… phải thật sự xúc động trước những điều đang nói, đang viết, đang bàn luận.

b. Để viết được những câu như: “Không ! Chúng ta thà hi sinh tất cả...” hay uốn lưỡi cú diều...", người viết không chỉ có lòng yêu nước nồng cháy và lòng căm thù giặc sâu sắc mà còn phải biết chuyển tình cảm ấy thông qua phương tiện ngôn ngữ đến người đọc một cách hiệu quả nhất.

c. Ý kiến "Càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm càng tăng" không đúng. Bởi nếu dùng quá nhiều mà không phù hợp sẽ biến bài văn nghị luận thành lí luận dông dài, không đáng tin cậy, làm giảm bớt sự chặt chẽ trong mạch lập luận.

II. Luyện tập

Câu 1 [trang 97 sgk ngữ văn 8 Tập 2]:

- Những yếu tố biểu cảm trong phần I - Chiến tranh và "Người bản xứ" được thể hiện trong hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc mang tính chất mỉa mai, châm biếm.

+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu - những đứa con yêu và những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do.

+ Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột - đột ngột lìa xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường.

+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi - xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.

+ Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng.

+ Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy.

+ Khạc ra từng miếng phổi.

- Tác dụng của những từ ngữ này: Giúp người đọc thấy được bản chất lọc lõi, lừa đảo và bộ mặt thâm độc, quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa làm bia đỡ đạn cho chúng.

Câu 2 [trang 97 sgk ngữ văn 8 Tập 2]:

- Những cảm xúc của tác giả biểu hiện qua đoạn văn:

+ Nỗi buồn của tác giả trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.

+ Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước thực tế đáng buồn diễn ra trong ngành giáo dục

– Tình cảm ấy thể hiện:

+ Từ ngữ bộc lộ cảm xúc: nỗi khổ tâm, nói làm sao,…

+ Câu văn thể hiện nỗi buồn, thái độ bất bình: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa”.

+ Câu văn mang giọng điệu mỉa mai: “Sao không có một “hang” nào đó…”

Câu 3 [trang 98 sgk ngữ văn 8 Tập 2]:

Viết đoạn văn:

Việc học luôn là vấn đề quan trọng và mỗi người luôn tự kiếm tìm cho mình những phương pháp học hiệu quả nhất. Tuy nhiên, ngày nay có một thực trạng đáng buồn là nhiều học sinh đang học vẹt, học tủ. Học vẹt chính là cách học thuộc lại những gì đã được dạy mà không hiểu rõ vấn đề, không thấy được bản chất của vấn đề còn học tủ là chỉ học một phần còn lại phụ thuộc vào vận may. Học vẹt và học tủ đều để lại những hậu quả nghiệm trọng đối với người học. Trước hết, nó làm cho người học phụ thuộc vào may mắn, nên dễ dẫn tới hiện tượng lệch tủ và bị điểm kém. Cùng với đó, với cách học này sẽ khiến cho học sinh bị rỗng kiến thức, mất gốc và mất đi phương hướng học tập của bản thân. Như vậy, có thể thấy, việc học vẹt, học tủ để lại những hậu quả khó lường cho người học, bởi vậy chúng ta cần tránh xa việc học tủ, học vẹt và tự kiếm tìm cho mình một phương pháp học đúng đắn, hiệu quả nhất.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 8 ngắn gọn, hay khác:

Soạn bài Đi bộ ngao du

Soạn bài Hội thoại [tiếp theo]

Soạn bài Luyện tập đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận

Soạn bài Kiểm tra văn

Soạn bài Lựa chọn trật tự từ trong câu

Video liên quan

Chủ Đề