Nêu Điện Biên của chiến dịch Điện Biên Phủ

.

Chiều 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến - Quyết thắng của quân đội ta tung bay trên nóc hầm

tướng De Castries. [Ảnh: TTXVN]

Thắng lợi đó đã đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc kẻ thù phải ký Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh, công nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương; đồng thời là kết tinh sức mạnh của toàn dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh, là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; là niềm tự hào của các thế hệ người Việt Nam và của cộng đồng quốc tế đấu tranh vì độc lập, tự do; vì “bình đẳng, bác ái”, là sự kiện lịch sử quan trọng trong tiến trình phát triển của nhân loại. Có thể điểm lại một số dấu mốc lịch sử quan trọng của chiến thắng Điện Biên Phủ:

1. 20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc. 6 tiểu đoàn dù với khoảng 4.500 lính dưới sự chỉ huy của Gill, một sĩ quan dày dạn kinh nghiệm trong hàng ngũ Pháp, đã ra sức đàn áp bà con và truy lùng lính Việt Minh, sau này được tăng cường thêm 6 tiểu đoàn nữa trở thành lực lượng quân đồn trú chính trong trận chiến Điện Biên Phủ lịch sử.

 2. 03/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh kế hoạch Navarre đang có chiều hướng thất bại và Pháp cần nhanh chóng có những chiến lược mới nếu không muốn Mỹ chính thức hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương. Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm "chưa từng thấy" ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa về binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.

3. 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông - Xuân 1953 - 1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận, theo đó ta tích cực chuẩn bị về mọi mặt cho một cuộc chiến lâu dài, khó khăn nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thay đổi cục diện chiến tranh. Nếu chiến thắng trong trận đánh này ta sẽ kết thúc sự đô hộ của Thực dân Pháp sau gần 100 năm xâm lược.

4. 26/01/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc, tiến chắc". Đây là một trong những quyết định quan trọng nhất dẫn tới chiến thắng trong trận đánh Điện Biên Phủ lịch sử. Từ quyết định này, ta đã thực hiện việc kéo pháo ra, chuẩn bị lại về hậu cần, thay đổi ngày giờ chiến đấu, ... để đảm bảo tính "chắc thắng" của chiến dịch.

 5. 31/01/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên địa điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay. Dù vậy, khi leo lến đỉnh Pú Hót phía sau điểm đóng quân, ta có thể dễ dàng quan sát được trận địa của địch bằng ống nhòm.

 6. 13/3/1954, Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm. Lần đầu tiên ta đã sử dụng hiệu quả sức mạnh của lựu pháo 105mm và cao xạ bắn hiệu chỉnh, mở cửa để bộ binh xông lên tiêu diệt địch. Nhanh chóng chiếm giữ được Him Lam và hai cụm cứ điểm khác là Độc Lập và Bản Kéo, chỉ ba ngày sau đó khiến cho phòng tuyến phía Bắc và Đông Bắc của Pháp bị thất thủ, tạo thời cơ cho ta có thể dễ dàng tiếp cận phân khu trung tâm Mường Thanh.

7. 31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries. Phát huy thắng lợi trong những trận đầu, ta nhanh chóng chiếm được các đồi D1, D2, D3, E1, C1; riêng A1 và C2 phải tới gần những ngày cuối cùng mới chiếm được hoàn toàn do những nỗ lực cứu nguy và vị trí quan trong của những cứ điểm này đối với Thực dân Pháp. Trước đó, bằng cách đào những hệ thống giao thông hào xung quanh Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và từ các vị trí của ta đến gần các cứ điểm của địch, ta đã siết chặt vòng vây, tiêu diệt được nhiều địch, tạo thời cơ tấn công các cứ điểm một cách dễ dàng, thuận lợi. Ta cũng tăng cường sự hoạt động của pháo cao xạ và bộ đội bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch, khống chế sân bay Mường Thanh, ngăn chặn tiếp viện bằng máy bay của chúng, khiến Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ngày càng suy yếu và mất dần sức chiến đấu.

8. 01/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích. Ta đã thực hiện được một việc không tưởng khi đào được một đường hầm ngầm trên Đồi A1 từ vị trí của ta đến gần hầm chỉ huy cứ điểm của Pháp, đặt khối thuốc nổ 960kg để tiêu diệt lô cốt quan trọng này.

9. 06/5/1954, vào 20 giờ 30, khối bộc phá nghìn cân đặt ở cuối đường hầm trên đồi A1 được kích nổ. Do đường hầm đào hơi chệch, bộc phá đã nổ không phải ngay bên dưới căn hầm ngầm lợi hại như ta muốn, mà lại bên dưới khu vực có lô-cốt, công sự của đại đội dù 2, tiêu diệt phần lớn đại đội này. Khi lực lượng của trung đoàn 174 [Đại đoàn 316] tiến công, địch vẫn chống cự kịch liệt.Quân ta vừa đóng chốt chặn viện vừa cho một bộ phận theo đường tăng viện lên đồi đánh địch, đưa chúng vào thế bị hai gọng kìm ép chặt! Chúng tiếp tục chống cự đến gần rạng sáng ngày 7.

10. 07/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" tung bay trên nóc hầm De Castries, ta đã tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kết thúc cuộc chiến gian khổ ác liệt trong tư thế của người chiến thắng.

11. 21/7/1954, Hiệp định Gionever được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương. Từ đây miền Bắc sạch bóng quân thù, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam ruột thịt trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược./.

Chiến dịch quyết chiến lược của QĐND VN nhằm tiêu diệt quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định trong chiến cục Đông Xuân 1953-54. 

Tư lệnh chiến dịch: Võ Nguyên Giáp.

Lực lượng ta có: 3 đại đoàn bộ binh [308, 312 và 316], Trung đoàn bộ binh 57 [Đại đoàn 304], Đại đoàn công binh-pháo binh 351.

Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ có: 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay [trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù], tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, gồm 49 cứ điểm được trang bị hoả lực mạnh, có 2 căn cứ hoả lực và 2 sân bay ở Mường Thanh và Hồng Cúm.

                                                                    

Chiến dịch dự định bắt đầu 25.1.1954 [kế hoạch đầu tiên là 20.1.1954], theo phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, nhưng do địch đã tăng cường binh lực và củng cố hệ thống phòng ngự vững chắc, đồng thời về phía ta, việc đưa pháo vào trận địa và công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu bộ binh-pháo binh chưa hoàn tất, nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sửa đổi kế hoạch, tiếp tục chuẩn bị mọi mặt, chuyển sang thực hiện phương châm “đánh chắc tiến chắc”, dùng cách đánh vây hãm tiến công, đột phá lần lượt để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm.

Chiều 13.3.1954, CDĐBP mở màn, diễn biến qua 3 đợt.

Đợt 1 [13-17.3], ta đập tan thế trận phòng ngự vòng  ngoài của địch ở phía bắc và Đông Bắc, mở đầu bằng trận Him Lam [13.3.1954], tiếp đó tiêu diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập [xem trận đồi Độc Lập, 15.3.1954], bao vây, bức hàng cụm cứ điểm Bản Kéo [16.3.1954], đánh bại nhiều đợt phản kích của địch. 

Đợt 2 [30.3-30.4], sau hơn 10 ngày xây dựng trận địa tiến công và bao vây với hàng trăm kilômét hào giao thông, hàng ngàn công sự và ụ súng các loại, ta tiến công diệt các cứ điểm E, D1, D2, C1 trên dãy đồi phía đông và 106, 311 trên hướng Tây-Bắc sân bay Mường Thanh, nhưng đánh cứ điểm A1 [xem trận đồi A1, 30.3-7.5.1954] và các cứ điểm C2, 105 không thành công, bị địch phản kích chiếm lại nửa đồi C1. 

Từ 16.4 ta phát triển trận địa bao vây, tiến công, đánh lấn diệt các cứ điểm 105 [ngày 18.4], 206 [xem trận cứ điểm 206, 17-23.4.1954], đào hào cắt đôi sân bay Mường Thanh, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch nhằm giành lại sân bay [xem trận sân bay Mường Thanh, 21-23.4.1954], kết hợp bắn tỉa và đưa pháo phòng không xuống cánh đồng Mường Thanh khống chế rồi triệt hẳn tiếp tế đường không của địch.

Đợt 3 [1-7.5], ta lần lượt đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông [C1, C2 và A1], diệt một số cứ điểm ở phía Tây, tăng cường vây ép phân khu Hồng Cúm, bao vây uy hiếp SCH trung tâm, dập tắt hy vọng rút chạy của địch; 15 giờ 7.5 tổng công kích vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng Đờ Catxtơri [De Castrie] và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm, buộc số địch còn lại ở phân khu trung tâm phải đầu hàng, truy kích và bắt gọn bộ phận địch ở Hồng Cúm địch rút chạy.

                                                   

Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

CDĐBP giành toàn thắng, diệt và bắt hơn 16.200 địch [có 1 thiếu tướng, 369 sĩ quan từ đại tá đến thiếu uý], thu toàn bộ vũ khí trang bị, bắn rơi 62 máy bay. 

CDĐBP là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất, điển hình nhất của quân và dân VN trong Kháng chiến chống Pháp, cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác trong Đông Xuân 1953-54 giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, góp phần đưa hội nghị Giơnevơ về Đông Dương [8.5-21.7.1954] đến thành công; là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến dịch VN trong Kháng chiến chống Pháp [MH176-177].

Nguồn: vietnamdefence.com

Video liên quan

Chủ Đề