Quá trình phát triển của văn học trẻ em

Tóm tắt nội dung tài liệu

Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________




QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
QUA GÓC NHÌN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT MÁC-XÍT
HOÀNG TRƯỜNG GIANG*

TÓM TẮT
Bài viết tiếp cận quá trình phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam qua góc nhìn
của chủ nghĩa duy vật mác-xít; phân tích quá trình phát triển của văn học thiếu nhi ở các
giai đoạn lịch sử cụ thể, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật mác-xít
đối với văn học thiếu nhi từ khi có sự tiếp xúc với triết học Mác.
Từ khóa: văn học thiếu nhi, chủ nghĩa duy vật mác-xít, quá trình phát triển.
ABSTRACT
The developmental process of Vietnamese literature for children
under the viewpoint of marxist materialism
The article develops a new approach to the developmental process of Vietnamese
literature for children under the viewpoint of marxist materialism; analyses this process
through special periods of history; as well as points out some certain influences of marxist
materialism on literature for children.
Keywords: literature for children, marxist materialism, developmental process.

1. Đặt vấn đề thiếu nhi – một đối tượng “đặc biệt”.
Trong lịch sử của triết học nói riêng “Đặc biệt” ở chỗ, đối tượng này tuy còn
và trong sự phát triển của các bộ môn hạn chế về nhận thức đối với thực tại
khoa học khác nói chung luôn diễn ra khách quan nhưng lại được xem là rất
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và “mạnh” trong việc tiếp thu các tri thức về
chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh đó tạo thực tại. Việc xác định xem sự phát triển
nên động lực bên trong cho sự phát triển của dòng văn học này chịu ảnh hưởng
tư duy khoa học của các ngành khoa học của chủ nghĩa duy tâm hay chủ nghĩa duy
khác nhau. Văn học nói chung và văn học vật thiết nghĩ cũng là một vấn đề đáng
thiếu nhi nói riêng cũng không nằm ngoài quan tâm. Bài viết này hi vọng sẽ góp
“con đường” này. thêm một góc nhìn mới mẻ về sự phát
Quá trình phát triển của văn học triển của văn học thiếu nhi trong toàn bộ
thiếu nhi được xem là “gian nan” hơn so quá trình phát triển của nền văn học nước
với các loại thể văn học khác, lí do chính nhà.
nằm ở chỗ đối tượng mà nó hướng tới: 2. Cơ sở lí luận
2.1. Sự đối lập của chủ nghĩa duy vật
*
và chủ nghĩa duy tâm trong triết học và
ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
bản chất của chủ nghĩa duy vật mác-xít



72
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Trường Giang
_____________________________________________________________________________________________________________




Việc giải quyết mặt thứ nhất của của chủ nghĩa duy vật mác-xít. Xa rời
vấn đề cơ bản của triết học đã phân chia nguyên tắc đó sẽ xa rời thế giới quan duy
các nhà triết học theo hai trào lưu là chủ vật, sẽ sa vào chủ nghĩa duy tâm.
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Chủ Mặt khác, khi khẳng định sự phụ
nghĩa duy vật cho rằng vật chất có trước thuộc của ý thức vào vật chất, chủ nghĩa
ý thức và quyết định ý thức. Trong khi duy vật mác-xít đồng thời cũng vạch ra
đó, chủ nghĩa duy tâm lại khẳng định ý sự tác động trở lại vô cùng quan trọng
thức có trước, vật chất có sau, ý thức của ý thức đối với vật chất. Ý thức là sự
quyết định vật chất. Trong lịch sử, chủ phản ánh hiện thực khách quan vào trong
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai bộ óc của con người một cách năng động,
trường phái chính trong triết học, luôn sáng tạo. Ý thức phản ánh thế giới khách
luôn đấu tranh với nhau. Sự đối lập đó có quan trong quá trình con người tác động,
thể coi là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử cải tạo thế giới bằng thực tiễn. Vì vậy, ý
triết học, tạo thành một động lực nội tại thức của con người có tác động tích cực
cho sự phát triển của triết học. làm biến đổi hiện thực khách quan theo
Tuy nhiên cũng không nên quá nhu cầu của mình. Quan hệ giữa vật chất
cường điệu quá sự đối lập giữa chủ nghĩa và ý thức không phải là quan hệ một
duy vật và chủ nghĩa duy tâm để xem xét chiều mà là quan hệ tác động qua lại. Nếu
các hệ thống triết học trong lịch sử cũng không nhận thức được điều đó thì sẽ rơi
như xem xét các lĩnh vực khác của đời vào quan niệm duy vật tầm thường, phi
sống xã hội. Trên thực tế, không phải bao biện chứng, bảo thủ và trì trệ trong hành
giờ và ở đâu sự đối lập giữa duy vật và động.
duy tâm cũng thể hiện rõ ràng và đậm Sự tác động qua lại giữa vật chất và
nét. Do đó không thể quy kết một học ý thức, trong đó vật chất là cái quyết
thuyết khoa học nào đó về chủ nghĩa duy định, diễn ra trên cơ sở thực tiễn. Thực
vật hoặc chủ nghĩa duy tâm một cách đơn tiễn là khâu trung gian nối liền giữa cái
giản. vật chất và cái tinh thần. Phạm trù thực
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật tiễn, do vậy, có ý nghĩa thế giới quan
mác-xít là một bước ngoặt trong quá trình quan trọng, góp phần làm cho quan niệm
phát triển của triết học. Chủ nghĩa duy mác-xít về vật chất và ý thức mang tính
vật mác-xít là đỉnh cao của thế giới quan duy vật triệt để, không chỉ trong tự nhiên
duy vật, là chủ nghĩa duy vật triệt để. Đặc mà còn trong đời sống xã hội.
điểm quan trọng nhất về mặt bản chất của 2.2. Quá trình hình thành và phát triển
chủ nghĩa duy vật mác-xít là đã giải của văn học thiếu nhi Việt Nam
quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết “Văn học thiếu nhi là những tác
học từ quan điểm thực tiễn. Chủ nghĩa phẩm văn học mà nhân vật trnng tâm là
duy vật mác-xít khẳng định rằng, vật chất thiếu nhi hoặc được nhìn bằng “đôi mắt
có trước, ý thức có sau, vật chất quyết trẻ thơ”, với tất cả những tình cảm, xúc
định ý thức. Đó là nguyên tắc xuất phát cảm mãnh liệt, tinh tế, ngây thơ, hồn


73
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________




nhiên được các em thích thú, say mê và - Giai đoạn văn học viết: Giai đoạn
có nội dung hướng đến giáo dục, bồi này được mở đầu bằng Thánh Tông di
dưỡng tâm hồn, đặt nền móng cho sự cảo của Lê Thánh Tông và Nguyễn Trãi
hoàn thiện tính cách của các em thuộc với Gia huấn ca. Hai tác phẩm này đã
những lứa tuổi khác nhau từ ấu thơ cho quan tâm đến thiếu nhi. “Hiện tượng”
đến suốt cuộc đời” [5, tr.8]. Văn học, này là một hiện tượng đặc biệt vì “ít có
trong đó có văn học thiếu nhi, luôn đồng dân tộc nào trên thế giới các bậc danh
hành cùng dân tộc trong suốt quá trình nhân, các ông vua cũng làm thơ, viết
lịch sử, bắt đầu từ văn học truyền miệng truyện cho các em”.
để rồi tự hoàn thiện cả hình thức lẫn nội Đặc biệt là từ đầu thế kỉ XX trở đi,
dung cho đến ngày nay. Gần như bất kì cụ thể là thời kì trước 1945, văn học thiếu
một nền văn học nào cũng chứa đựng nhi đã bước đầu song hành với văn học
trong nó bộ phận không thể thiếu là “văn dân tộc. Các sáng tác của Phan Bội Châu
học thiếu nhi”. Có nhà nghiên cứu đã ví [Hải ngoại huyết thư, Chân tướng
văn học dân gian như “dòng sữa mẹ ngọt quân...], Tản Đà [Lên sáu, lên tám…]... là
ngào” nuôi dưỡng nền văn học dân tộc sự mở đầu của văn học thiếu nhi Việt
thì văn học thiếu nhi như “trái chín đầu Nam hiện đại. Tiếp theo sự mở đầu đó là
cành” – một “dấu hiệu”, một “thước đo” những thành công thực sự vang dội của
về sự tiến bộ và phát triển của cả nền văn Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu
học dân tộc đó. [1938], Tô Hoài với một loạt truyện và kí
Quá trình hình thành và phát triển mà nổi bật là Dế mèn phiêu lưu kí
của văn học thiếu nhi Việt Nam gồm 2 [1941]...
giai đoạn chính như sau: Văn học thiếu nhi từ sau Cách
- Giai đoạn văn học truyền miệng: mạng tháng Tám 1945 phát triển mạnh cả
Văn học thiếu nhi trong giai đoạn này về lượng và chất. Đã có các cơ quan chỉ
xuất hiện rất sớm, “hiện hữu” và được đạo, lãnh đạo các bộ phận chuyên về văn
“công nhận” qua những sáng tác dân gian học thiếu nhi tại các nhà xuất bản, có
như những bài vè, đồng dao, ca dao, những tờ báo chuyên dành cho trẻ em. Về
những truyện cổ tích, thần thoại, truyền cá nhân, có một người đã dành sự quan
thuyết, truyện ngụ ngôn... Những sáng tâm đặc biệt cho thiếu nhi và cho văn học
tác dân gian này đến với các em rất tự thiếu nhi, đó chính là Hồ Chủ tịch. Điều
nhiên qua lời ru, lời kể của mẹ, của bà, này thể hiện qua một loạt các bài thơ của
giúp các em “vừa học, vừa chơi”, vừa tập Bác trong thời kì đó. Ngoài ra còn phải
nói có nhịp, vừa luyện trí nhớ, mở mang kể đến một lực lượng sáng tác văn học
kiến thức ban đầu về thế giới xung thiếu nhi hùng hậu như: Tô Hoài, Tố
quanh... Tuy giai đoạn phát triển này của Hữu, Nguyễn Tuân, Đoàn Giỏi, Võ
văn học thiếu nhi đã được xem là kết Quảng... với hàng loạt những tác phẩm
thúc, nhưng về hình thức nó vẫn còn tồn dành cho thiếu nhi, miêu tả về cuộc sống
tại trong thời đại ngày nay.


74
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Trường Giang
_____________________________________________________________________________________________________________




và chiến đấu của nhân dân ta giai đoạn chúng ta có thể thấy được rằng, cũng như
này. các ngành khoa học khác, văn học nói
Những năm tháng chống Mĩ sau đó chung và văn học thiếu nhi nói riêng
có cả một “phong trào” viết cho thiếu trong giai đoạn đầu phát triển của mình
nhi. Bên cạnh những tác giả – người lớn chịu ảnh hưởng khá lớn của chủ nghĩa
viết cho các em, còn xuất hiện một bộ duy tâm. Điều này không phải là quá khó
phận không nhỏ những tác giả – thiếu nhi hiểu khi mà văn học thiếu nhi trong giai
viết cho thiếu nhi. Có thể kể đến Trần đoạn đầu xuất hiện chủ yếu dưới hình
Đăng Khoa, Hoàng Hiếu Nhân, Cẩm thức những sáng tác dân gian, đến với
Thơ, Chu Hồng Quý... Các tác giả thiếu các em qua lời kể của mẹ, của bà. Những
nhi này đã đem đến cho văn học dân tộc sáng tác dân gian này xuất hiện từ khi
những “hương sắc” mới lạ, quyến rũ, chưa có chữ viết và như M.Gorki đã nói,
những tiếng nói vừa hồn nhiên, vừa ngây đây chính là “những sáng tác của quần
thơ lại vừa dí dỏm, tinh nghịch, đã dẫn chúng lao động, phản ánh thế giới quan
người đọc vào “cái thế giới của mầm của người lao động” [1, tr.24]. Khi mà
non, măng non, của chồi nụ, gà con, vịt ngay cả những người được xem là “tác
mới nở, bê con, nghé ngọ, của hừng giả” của văn học thiếu nhi chưa có được
đông” [Xuân Diệu] [1, tr.23]. một nhân sinh quan, một thế giới quan rõ
Từ 1975 đến nay, văn học thiếu nhi ràng, khoa học về thực tại thì những “đứa
có sự phát triển đa dạng, không chỉ về đề con tinh thần” của họ có in đậm tính duy
tài, nội dung mà còn ở cả thể loại, hình tâm cũng là điều dễ hiểu. Chúng ta có thể
thức. Đội ngũ sáng tác đông đảo, có chất chứng minh luận điểm trên thông qua
lượng, các tác phẩm ngày càng được hàng loạt những tác phẩm của văn học
hoàn thiện và đạt được các kết quả rất thiếu nhi thời kì này.
khả quan. Trong thần thoại, truyện kể về các
Văn học thiếu nhi thời gian qua, vị thần, miêu tả những nhân vật “siêu
bên cạnh những thành công, không phải nhân” có sức mạnh và tài năng hơn
không có những hạn chế. Có lẽ không ai người, khác người, “thần”, “thánh” hoặc
phủ nhận: Trong bất kì hoàn cảnh nào, “tinh”... suy cho đến cùng đều là sản
Đảng, Nhà nước và Bác Hồ vẫn luôn phẩm của trí tưởng tượng do chính con
luôn dành cho văn học thiếu nhi sự quan người tạo ra trong thời kì tư duy còn
tâm đặc biệt với phương châm: “Phải xây “ngây thơ” pha chút hoang đường, nhằm
dựng con người mới ngay từ lúc mới lọt lí giải các hiện tượng tự nhiên, xã hội.
lòng và ở mọi lứa tuổi” [1, tr.24]. Khi con người chưa giải thích được
3. Quá trình phát triển của văn học những hiện tượng tự nhiên, khi kiến thức
thiếu nhi Việt Nam dưới góc nhìn của về thế giới xung quanh còn dừng ở mức
chủ nghĩa duy vật mác-xít kinh nghiệm, ở sự quan sát và suy ngẫm,
3.1. Theo sự phân chia các giai đoạn khi ấy thần thoại sẽ xuất hiện để “hình
phát triển của văn học thiếu nhi như trên, ảnh hóa”, “hình tượng hóa”, “văn chương


75
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________




hóa” các hiện tượng tự nhiên bằng các duy tâm trong cách xây dựng cốt truyện,
nhân vật giữa người và thần, giữa tín nhưng có thể nói tính duy vật đã thể hiện
ngưỡng và sự thật, giữa tôn giáo và lịch rất rõ trong từng sáng tác. Cụ thể là, cho
sử. Vì vậy, khi giải thích về vũ trụ, trong dù những truyện cổ tích đầu tiên còn chịu
thần thoại xuất hiện nhiều loại thần, mỗi nhiều ảnh hưởng của thần thoại, nhưng
thần gắn với một hiện tượng tự nhiên như về cơ bản, truyện cổ tích luôn luôn gắn
Thần Sấm, Thần Sét, Thần Trụ Trời, Nữ chặt với cuộc sống đời thường và phản
thần Mặt Trăng, Nữ thần Mặt Trời... ánh cuộc sống ấy từ nhiều góc độ khác
Tương tự và có quan hệ gần gũi với nhau, hướng sự chú ý của con người vào
thần thoại là truyền thuyết. Đây là những những vấn đề lịch sử - xã hội cụ thể. Ví
sự tích, những câu chuyện kể về các nhân dụ, trong truyện Trí khôn của ta đây, tuy
vật lịch sử, các sự kiện lịch sử có liên rằng cả trâu và hổ đều có thể nói chuyện
quan đến một cộng đồng hay một dân tộc với con người [duy tâm], nhưng yếu tố đó
nhưng lại được “kì ảo hóa”. Nếu không không phải là chính, cái chính ở đây là
kể những truyền thuyết nặng về “duy nhờ có cuộc nói chuyện đó mà câu
tâm” như Lạc Long Quân, Âu Cơ, An chuyện đã giải thích được vì sao hổ có
Dương Vương, Thánh Gióng... ngay cả vằn trên người, và trâu không có hàm
đến những nhân vật có thật như Trưng dưới, những yếu tố ấy rất hiện thực, rất
Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh, Phùng “duy vật”. Hay với truyện Ăn khế trả
Hưng, thậm chí là Trần Hưng Đạo… vàng, điều có thể rút ra từ câu chuyện
cũng vẫn có thể bị “thần hóa” một cách mang đầy màu sắc phép thuật này là bài
tài tình. Chẳng hạn, truyền thuyết Yết học đạo đức: tham thì thâm. Sọ Dừa hay
Kiêu có thể lặn hàng giờ dưới nước nhờ Tấm Cám, tuy là những chuyện cổ tích -
học được phép thần [dị bản]; các truyền thần kì, nhân vật chính có thể chết đi
thuyết Lê Lợi trả gươm cho rùa thần, vụ sống lại, biến thân, hóa phép, nhưng từ
án Lệ Chi Viên với truyền thuyết rắn biến đó có thể rút ra bài học ở hiền thì gặp
thành người để báo thù... Chính những lành, gieo gió thì gặt bão...
câu chuyện như vậy càng khẳng định Thật ra, nếu chúng ta xem xét một
thêm tính duy tâm trong văn học thiếu cách kĩ lưỡng, ngay trong giai đoạn đầu,
nhi giai đoạn này. khi mà chủ nghĩa duy tâm “thấm đẫm”
Bên cạnh thần thoại và truyền trong văn học thiếu nhi thì đâu đó, trong
thuyết, không thể không kể đến truyện cổ từng nội dung, trong từng loại thể vẫn có
tích. Nếu đa số các thần thoại hướng về sự xuất hiện của tư tưởng duy vật. Ví dụ
thần, truyền thuyết hướng về con người – như trong thần thoại, một thể loại mang
thần thánh thì truyện cổ tích lại lấy hình đậm đặc điểm của văn hóa tín ngưỡng và
ảnh con người – cuộc sống làm nhân vật tôn giáo xa xưa của mỗi dân tộc, giữa yếu
trung tâm. Đây chính là nét chấm phá tố hoang đường vẫn có những yếu tố thực
trong sự phát triển của văn học thiếu nhi tế, ngay trong sự tưởng tượng hư cấu vẫn
giai đoạn đầu. Tuy vẫn còn những nét lấp lánh những sắc màu của cuộc sống


76
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Trường Giang
_____________________________________________________________________________________________________________




hiện thực. Thần thoại tuy “duy tâm” lưu kí. Qua việc nhân cách hóa chú dế
nhưng cũng bắt nguồn từ thực tế, người mèn, Tô Hoài lôi cuốn bạn đọc nhỏ tuổi
xưa dùng cái “duy tâm” để giải thích cái theo những bước chân phiêu lưu của chú.
“duy vật” theo kiểu tư duy “thơ ngộ”. Dế Mèn có thể nói, có thể cười, có thể cư
Thần thoại là chuyện về thần nhưng thần xử rất “người”, yếu tố “hoang đường duy
ở đây chính là sự kì vĩ hóa con người. tâm” có thể coi là thứ yếu. Cái chính là
Thần thoại ca ngợi các thần nhưng thực qua hình tượng chú dế, Tô Hoài đã giáo
tế là khẳng định, đề cao sức mạnh, trí tuệ dục trẻ em biết tránh xa những thói hư tật
của con người. Thần là kết quả của trí xấu, sự kiêu căng, tự phụ, thói đạo đức
tưởng tượng nhưng thần cũng là kết tinh giả, giáo dục các em tinh thần thượng võ,
của rất nhiều con người tài giỏi. Đề cao đùm bọc, giúp đỡ nhau... Chất duy vật
sức mạnh của thần tức là đề cao sức của tác phẩm là ở đó!
mạnh của con người, là ước mơ giải Văn học thiếu nhi từ sau Cách
phóng con người khỏi sự lệ thuộc tự mạng tháng Tám 1945 đến trước 1954
nhiên, tự tin vào chính mình. phát triển nhảy vọt về mọi mặt. Những
Tương tự, những sự kiện trong tác phẩm thời kì này có sự thuận lợi về
truyền thuyết dù có kì ảo đến đâu, thì cốt mặt tư tưởng, đó là “Năm điều Bác Hồ
lõi của nó vẫn là những sự kiện lịch sử, dạy thiếu nhi”. Có thể kể tên một số tác
những nhân vật lịch sử có thật. phẩm như: Tìm mẹ, Chiến sĩ ca-lô, Hà
3.2. Giai đoạn phát triển sau của văn Học Hợi học sinh gương mẫu, Hai bàn
học thiếu nhi, tức giai đoạn văn học viết tay chiến sĩ, Điện Biên Phủ của chúng em
bằng chữ quốc ngữ, là giai đoạn mà [Nguyễn Huy Tưởng] viết về những em
những sáng tác văn học thiếu nhi đã bé mưu trí, dũng cảm giúp bộ đội chiến
không còn hoặc còn nhưng không đáng đấu hoặc trưởng thành trước tuổi cùng
kể những yếu tố duy tâm; tính duy vật, với cuộc kháng chiến của dân tộc…; Chú
tính thực tại bắt đầu “đậm đặc” trong Giao làng Sen [Nguyễn Tuân], Dưới
từng sáng tác. chân cầu mây [Nguyên Hồng] hoặc Hoa
Trước 1945, sách dành cho thiếu Sơn [Tô Hoài] đề cập những “người thật
nhi chủ yếu được dịch từ văn học nước việc thật”, những tấm gương thiếu nhi
ngoài. Đội ngũ tác giả trong nước viết dũng cảm, góp thêm tiếng nói từ phía các
cho thiếu nhi còn ít, đề tài còn hạn hẹp, em, khẳng định sự thắng lợi của cuộc
số lượng tác phẩm không nhiều. Có thể kháng chiến, cho dù phải “trường kì, gian
kể đến những tác phẩm như: Bài học quét khổ”.
nhà [Nam Cao] giáo dục cho các em làm Văn học thiếu nhi thời kì 1954 –
việc nhà; Đám cưới chuột [Tô Hoài], Hai 1964 được bắt đầu bằng những tác phẩm
đứa trẻ [Thạch Lam] miêu tả về hiện miêu tả, hồi tưởng về cuộc sống con
thực cuộc sống khó khăn của đất nước người trong 9 năm kháng chiến của
trước cách mạng. Nổi bật trong số này là những tác giả quen thuộc, như: Vừ A
“tuyệt phẩm” của Tô Hoài Dế mèn phiêu Dính [Tô Hoài], Hai làng Tà Pình và


77
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________




Động Hía [Bắc Thôn], Đất rừng phương Các tác phẩm Mẹ vắng nhà [Nguyễn Thi]
Nam [Đoàn Giỏi], Em bé bên bờ sông Lai kể về những đứa con hiếu thảo của người
Vu [Vũ Cao], Cái Thăng [Võ Quảng], mẹ anh hùng [Út Tịch] hoặc Hồ Văn Mến
Đội du kích thiếu niên Đình Bảng [Xuân [Lâm Phương] kể về dũng sĩ diệt Mĩ Hồ
Sách], Bên đồn địch [Bùi Hiển]… Với Văn Mến là những tác phẩm được các em
những tác phẩm trên, người đọc lần đầu yêu thích, giúp các em hiểu thêm về cuộc
tiên có dịp “chứng kiến” những người sống và chiến đấu của các bạn trong vùng
anh hùng thiếu nhi trong cuộc chiến đấu giặc tạm chiếm. Cũng cần nhắc đến Quê
chung của dân tộc, được “thấy” sinh hoạt nội [Võ Quảng] – một tác phẩm có tính
muôn màu, muôn vẻ cùng những “bức chất hồi kí mang “hình bóng” của chính
tranh tâm trạng” đa dạng của lớp người tác giả trong những ngày thơ ấu, những
trẻ tuổi được sinh ra trong những năm ngày đầu đi theo cách mạng.
tháng chống Pháp. Bên cạnh văn xuôi, lực lượng các
Từ cuối năm 1964 đến tháng 4 – nhà thơ viết cho thiếu nhi giai đoạn này
1975, khi “Tất cả hành quân, tất cả cũng rất hùng hậu. Ngoài những nhà thơ
thành chiến sĩ” [Tố Hữu], văn học thiếu – người lớn viết về các em, viết cho các
nhi cũng có những bước phát triển mới, em từ trước đó khá quen thuộc như:
cùng cả nước “quyết tâm đánh thắng giặc Phạm Hổ, Võ Quảng, Vũ Ngọc Bình…
Mĩ xâm lược”. còn có những tác giả khác như: Định Hải,
Trước hết phải kể đến hàng loạt Ngô Viết Dinh, Phong Thu, Thy Ngọc…
những truyện tranh, truyện kí viết về Những tập thơ đặc sắc thời kì này gồm:
“người tốt, việc tốt”, viết về các anh Măng tre [Võ Quảng], Chú bò tìm bạn
hùng, chiến sĩ, cháu ngoan Bác Hồ ở cả [Phạm Hổ], Hai bàn tay em [Huy Cận],
hai miền Nam – Bắc, vừa nhằm hưởng Ông và cháu [Tú Mỡ], Tên lửa bút chì
ứng, cổ động cho phong trào “nghìn việc [Thy Ngọc], Đôi tai mèo [Trần Thanh
tốt”, vừa giúp các em hiểu và làm theo Địch], Tiếng hát [Vũ Ngọc Bình], Chồng
Năm điều Bác Hồ dạy, vừa động viên các nụ chồng hoa [Định Hải], Mầm bé [Ngô
em biết làm những “việc nhỏ nghĩa lớn”, Viết Dinh]. Nếu như trong thơ Võ Quảng
tiếp bước cha anh trên các mặt trận, từ là thế giới loài vật đầy vui nhộn và ngộ
sản xuất cho đến chiến đấu. Có những tác nghĩnh với những chú chào mào, chị
phẩm “người thật việc thật” được viết vành khuyên, anh bói cá, cô vàng anh…
dưới dạng “tự truyện” như Tôi đi học thì trong thơ Phạm Hổ lại là tình bạn, tình
[Nguyễn Ngọc Ký] hoặc Hoa xuân tứ cảm của “những người bạn nhỏ”. Trong
[Quang Huy] nêu tấm gương sáng về tập Hai bàn tay em, Huy Cận đã có “một
nghị lực, ý chí khắc phục khó khăn, bệnh cách riêng” – “viết cho trẻ em, với mắt
tật để học giỏi, trở thành người có ích cho trẻ em nhìn thế giới và có những bài viết
đời ngay từ thuở ấu thơ. cho các bậc làm cha, làm mẹ và người
Những tác phẩm dành cho thiếu nhi lớn yêu trẻ em” [Xuân Diệu] [1, tr. 74].
viết về đề tài chiến đấu cũng được chú ý. Đặc biệt, giai đoạn này còn có sự xuất


78
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Trường Giang
_____________________________________________________________________________________________________________




hiện của các nhà thơ - thiếu nhi như Trần sống, lao động và chiến đấu của dân tộc
Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Nhân, Chu Hồng Quý, Khánh Chi... với Pháp và đế quốc Mĩ, cũng như công cuộc
những tập thơ đáng yêu từ ngay nhan đề: kiến thiết đất nước. Các nhà văn, nhà thơ
Góc sân và khoảng trời, Em kể chuyện viết cho thiếu nhi đã lấy tư liệu từ thực
này, Nối dây cho diều, Rộng vòng chim tại khách quan, từ chính cuộc sống và
bay… bằng ngòi bút nghệ thuật của mình đã
Chiến tranh qua đi, cả dân tộc bắt mang đến cho các em “kiến thức” về
tay vào xây dựng đất nước trong hòa bình chính cuộc sống ấy.
nhưng “những kí ức của một thời” vẫn Tuy nhiên, không phải lúc nào
thu hút các nhà văn, nhà thơ. Võ Quảng người đọc – thiếu nhi cũng chịu sự tác
với Tảng sáng, Nguyễn Quang Sáng với động hoàn toàn của tác phẩm. Cũng như
Dòng sông thơ ấu, Phùng Quán với Tuổi quan hệ hai chiều giữa vật chất và ý thức,
thơ dữ dội… viết về những kỉ niệm thuở trong đó ý thức có sự tác động trở lại vô
ấu thơ gắn với cuộc kháng chiến chống cùng quan trọng đối với vật chất. Các em,
Pháp. Bùi Minh Quốc với tác phẩm Hồi với ý kiến chủ quan của mình, có thể
đó ở Sa Kỳ, Thanh Quốc với Cát chảy…, thích hay không thích một thể loại nào đó
Nguyễn Thị Như Trang với Hoa cỏ đắng, của văn học thiếu nhi. Và ngay cả khi đã
Lê Phương Liên với Những tia nắng đầu thích thể loại ấy thì cũng không chắc rằng
tiên, Quang Huy với Ngôi nhà trống… lại các em đã “cảm” được hoàn toàn tác
quay về với cuộc sống, con người, những phẩm, để từ đó có thể hiểu và làm theo.
kỉ niệm của một thời gian khổ nhưng ấm Điều này đòi hỏi những tác phẩm văn học
nồng tình nghĩa trong những năm chống thiếu nhi phải cải thiện cả về nội dung và
Mĩ, cứu nước. hình thức để thu hút các em hơn. Nói
Đất nước thống nhất. Hàng loạt cách khác, “ý thức” của thiếu nhi ở một
những vấn đề của cuộc sống đặt ra không mặt nào đó có sự tác động trở lại đối với
chỉ với người lớn mà còn với cả “tuổi văn học. Tính đa dạng của đề tài, thể loại
mới lớn” đã được các nhà văn khéo léo văn học thiếu nhi cũng do trình độ nhận
chuyển tải đến các em qua các tác phẩm thức và tâm lí thị hiếu của các lứa tuổi
như Tình thương [Phạm Hổ], Chú bé có bạn đọc đặt ra: nhi đồng bé, nhi đồng lớn,
tài mở khóa [Nguyễn Quang Thân], thiếu niên bé, thiếu niên lớn có những
Trước mùa mưa bão [Trần Nhựt Minh]… hiểu biết và nhất là có những sở thích về
Có thể nói, giai đoạn phát triển sau thẩm mĩ rất khác nhau. Các em nhi đồng
– giai đoạn văn học viết bằng chữ quốc bé thường thích những truyện đồng thoại,
ngữ - của văn học thiếu nhi là giai đoạn cổ tích, mà trong câu chuyện đó các con
chủ nghĩa duy vật mác-xít ảnh hưởng đến vật đều biết nói năng suy nghĩ, trong khi
văn học thiếu nhi rất rõ rệt. Gần như có đó các em thiếu niên lại say mê những
thể khẳng định rằng, tất cả các sáng tác loại truyện chiến đấu, phiêu lưu, viễn
trong thời kì này đều lấy “nguồn” từ cuộc tưởng...


79
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________




4. Kết luận khổ một bài viết, chúng tôi đã phát triển
Có thể nói, dưới góc nhìn của chủ một cách tiếp cận tương đối mới về quá
nghĩa duy vật mác-xít, văn học thiếu nhi trình hình thành và phát triển của văn học
Việt Nam bao gồm hai giai đoạn phát thiếu nhi Việt Nam qua các giai đoạn lịch
triển khác nhau: giai đoạn đầu với những sử cụ thể dưới góc nhìn của chủ nghĩa
sáng tác truyền miệng, văn học thiếu nhi duy vật mác-xít, đồng thời chỉ ra những
Việt Nam tất yếu mang đậm tính duy ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật mác-xít
tâm; còn ở giai đoạn sau, giai đoạn văn đối với văn học thiếu nhi từ khi triết học
học viết [chủ yếu là viết bằng chữ quốc Mác du nhập vào Việt Nam.
ngữ], văn học thiếu nhi ngày càng mang
tính duy vật triệt để hơn. Trong khuôn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên An, Văn Thanh [2002], Bách khoa thư Văn học thiếu nhi, Nxb Từ điển Bách
khoa.
2. Hoàng Văn Cẩn [2005], Dạy học tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, tập 1, Nxb
Giáo dục.
3. Giáo trình Triết học Mác – Lê-nin, Nxb Chính trị Quốc gia [2004].
4. Hỏi đáp về văn học Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc [1998].
5. Triết học [dành cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành
Triết học], tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia [2001].
[Ngày Tòa soạn nhận được bài: 05-01-2012; ngày chấp nhận đăng: 20-4-2012]




80

Page 2

YOMEDIA

Bài viết tiếp cận quá trình phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam qua góc nhìn của chủ nghĩa duy vật mác-xít; phân tích quá trình phát triển của văn học thiếu nhi ở các giai đoạn lịch sử cụ thể, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật mác-xít đối với văn học thiếu nhi từ khi có sự tiếp xúc với triết học Mác.

23-09-2015 397 12

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề