Tăng lãi suất ngành nào hưởng lợi

Cái tên được nhắc tới ở đây là nhóm doanh nghiệp bảo hiểm, một ngành hiện đang có rào cản gia nhập rất lớn giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh gần như tuyệt đối cho các doanh nghiệp đi trước và đầu ngành. Cụ thể: Thứ nhất, yêu cầu về vốn đối với các doanh nghiệp trong ngành này rất cao. Thứ hai, việc xin giấy phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm mới rất khó khăn. Bằng chứng là số lượng doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam từ 2011 đến nay hầu như không thay đổi.

Bên cạnh đó, mức độ cạnh tranh trong ngành bảo hiểm hiện tại đã rất lớn, khi 10 doanh nghiệp top đầu nắm giữ tới 79% thị phần, hơn 20 doanh nghiệp còn lại chia nhau 21%.

Trong các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, 6 nghiệp vụ lớn chiếm tới 95% doanh thu phí bảo hiểm gốc, trong đó: Xe cơ giới chiếm 32%, Sức khỏe chiếm 29,4%, Tài sản và thiệt hại chiếm 14,4%. Trong đó bảo hiểm sức khỏe tăng trưởng mạnh nhất với mức tăng 25% trong 6 tháng đầu năm 2018. Bảo hiểm xe cơ giới giảm mạnh trong 2017 và 6 tháng đầu 2018 do lượng tiêu thụ ô tô giảm mạnh trong cùng thời gian này.

Với bảo hiểm nhân thọ, sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư tăng rất mạnh: 41% trong 2017 và 52,6% trong 6 tháng đầu 2018, trong khi bảo hiểm hỗn hợp đang tăng chậm lại.

So với nền kinh tế, ngành tài chính – ngân hàng- bảo hiểm đang có mức tăng trưởng nhanh hơn GDP, trong đó ngành bảo hiểm đóng góp ngày càng lớn. Doanh thu ngành bảo hiểm tăng trưởng với tốc độ 19%/năm từ 2011-2017, trong đó bảo hiểm phi nhân thọ tăng 13%/năm, bảo hiểm nhân thọ tăng 27%/năm. Trong khi đó, nhu cầu của thị trường còn rất lớn, là tiềm năng tăng trưởng mạnh cho các năm tới khi hiện tại chi tiêu cho bảo hiểm chỉ chiếm 2,1% thu nhập hàng năm/người của người dân Việt Nam. 

Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đang có xu hướng tăng. Nguồn: SSI

Tốc độ tăng trưởng là vậy nhưng tỷ lệ lãi từ hoạt động bảo hiểm của các doanh nghiệp lại rất thấp, thậm chí lỗ nhẹ khi tỷ lệ kết hợp [tỷ lệ bồi thường +tỷ lệ chi phí] >100%. Vậy lãi của các doanh nghiệp bảo hiểm đến từ đâu? Câu trả lời nằm ở những khoản đầu tư tài chính, bởi lợi nhuận tài chính chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp bảo hiểm. Đơn cử như Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt [MCK: BVH] đã có được tỷ lệ lợi nhuận tài chính/lợi nhuận trước thuế lên đến hơn 500%.

Trên thực tế, các công ty bảo hiểm chủ yếu đầu tư vào những tài sản có rủi ro thấp như trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng. Theo đó, lãi suất huy động của ngân hàng càng tăng, thì các doanh nghiệp bảo hiểm càng có lợi. 

Đánh giá của bạn:

Fed đã chính thức công bố nâng mức lãi suất 0,75% hôm 15/6, thị trường chứng khoán toàn đầu đặc biệt là Mỹ đã có một phiên phục hồi khá tốt bởi động thái này đã được nhà đầu tư lường trước. Tại Việt Nam, Vn-Index cũng có một phiên tăng đẹp 23 điểm với ít nhất 298 mã xanh trên HoSE. 

Dự báo phiên giao dịch cuối tuần và thời gian tới, bà Nguyễn Thị Phương Lam, Giám đốc Phân tích Công ty CP Chứng khoán Rồng Việt tại talkshow do báo Đầu tư tổ chức mới đây, cho rằng, thị trường đã được giải tỏa về mặt tâm lý và có sự hồi phục lại nhưng đây chỉ là phản ứng ngắn hạn trên thị trường, cho thấy tâm lý khá yếu ở thời điểm hiện tại nên khả nên sự phục hồi của thị trường chưa bền vững.

Xét về thông tin đến cuối tháng 6, thị trường hầu như không còn thông tin tích cực để hỗ trợ. Nhưng thông tin tiêu cực cũng không thấy quá nhiều để dẫn đến bán tháo mạnh. Sau phiên tăng điểm mạnh hôm nay, thị trường trong những phiên tới có thể cân bằng hơn và thị trường có thể có những phiên tiêu cực cũng có phiên xanh, phiên đỏ, nhưng chênh lệch khoảng 5-7% so với mức điểm hôm nay.

Trả lời câu hỏi nên đầu tư cổ phiếu nhóm nào trong bối cảnh lạm phát tăng cao, theo bà Lam, đối với nhóm đầu tư công, định hướng năm nay vẫn sẽ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công. Trong nhóm này, bên cạnh nhóm về hạ tầng, còn có nhóm về giao thông thông minh cũng có thể xem xét.

Bà Nguyễn Thị Phương Lam, Giám đốc Phân tích Công ty CP Chứng khoán Rồng Việt.

Đối với nhóm kỳ vọng vào sự phục hồi của nền kinh tế sau đại dịch có nhóm tiện ích công cộng, nhóm tiêu dùng thiết yếu và nhóm bất động sản khu công nghiệp. Những doanh nghiệp có quỹ đất lớn để phát triển các dự án cũng như có dự án phát triển nhà xưởng xây sẵn nên sẽ hưởng lợi.

Đối với ngành hàng không, mở cửa có thể sẽ giúp sản lượng hành khách tăng trưởng tốt. Tuy nhiên vì giá chi phí nhiên liệu ở mức cao trong ngắn hạn nên nhóm này cần quan sát. Liên quan đến nhóm có thể ảnh hưởng bởi lạm phát cũng như yếu tố tiền tệ, ngành ngân hàng xét về tăng trưởng lợi nhuận, đây vẫn là nhóm tăng trưởng tốt. 

"Chúng tôi kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng tốt so với khu vực, nên nhóm cổ phiếu ngân hàng vẫn là cổ phiếu tốt cho trung và dài hạn.
Ở các nhóm liên quan đến hàng hóa, kỳ vọng giá hàng hóa nguyên vật liệu có thể hạ nhiệt vào nửa cuối năm có nghĩa khả năng mở rộng lợi nhuận của nhóm này không còn nhiều nữa, và nhóm này không phù hợp trong việc nắm giữ trung và dài. Nhà đầu tư có thể đầu tư ngắn hạn", bà Lam nhận định. 

Đánh giá về mức thanh khoản trên thị trường, theo bà Lam, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường năm 2021 tương đối cao, trên 20.000 tỷ đồng/phiên. Trong giai đoạn hiện tại chúng ta không kỳ vọng thanh khoản thị trường sẽ phục hồi về mức cũng như năm 2021, đặc biệt là trong ngắn hạn.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, thị trường sẽ còn tiềm ẩn nhiều rủi rokhi lạm phát không rõ đã đạt đỉnh hay chưa hay chu trình tăng lãi suất vẫn còn, nên trong ngắn hạn rủi ro vẫn còn nhiều, việc mua bán trong hiện tại không nên FOMO mà cần sự tìm hiểu, phân tích kỹ.

"Khi chúng tôi quan sát, xét về định giá các doanh nghiệp, những doanh nghiệp mà Rồng Việt theo dõi hầu hết có kế hoạch kinh doanh bài bản, họ chú trọng vào phát triển hoạt động kinh doanh cốt lõi nên định giá của những doanh nghiệp này đã giảm về mức rất tốt so với năm 2021, nếu không quan tâm đến biến động hàng ngày thì cứ mua rồi để đó", bà Lam khuyến nghị.

Song hành cùng áp lực lạm phát, mặt bằng lãi suất cũng đang có dấu hiệu rục rịch tăng sau 2 năm ở mức thấp kỷ lục. Lãi suất huy động tại các Ngân hàng Thương mại đã tăng trung bình 0,5% – 1% so với đầu năm cho các kỳ hạn 6 -12 tháng, lãi suất trái phiếu Chính phủ 10 năm đã cao ngang mức trước dịch Covid-19 lên 3,54%. Theo nhiều nhà kinh tế, lãi suất có thể tiếp tục chịu áp lực tăng trong thời gian tới.

CHỨNG KHOÁN BIẾN ĐỘNG THẾ NÀO THEO LÃI SUẤT?

Thống kê từ Agriseco cho thấy, VN-Index có sự tương quan chặt chẽ với diễn biến lãi suất.

Chẳng hạn, giai đoạn 2000 - 2003, lãi suất tăng, thị trường chứng khoán ảm đạm và giảm. Giai đoạn này, nhìn chung nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng khả quan với tốc độ bình quân khoảng 7%/năm. Sau thời kỳ giảm phát nhẹ năm 2000 – 2001, chỉ số CPI giai đoạn 2002 – 2003 đã tăng lên và duy trì dưới 5%/năm. Cùng với đó, chính sách lãi suất thả nổi được ban hành năm 2002 tạo nên cuộc đua tăng lãi suất giữa các ngân hàng.

Thị trường chứng khoán sau đó rơi vào tình trạng sụt giảm mạnh khi giảm hơn 66% vào T7/2002 so với mức đỉnh năm 2001. Trong giai đoạn này, thị trường chứng khoán Việt Nam mới được thành lập với số điểm khởi đầu 100 điểm, đạt đỉnh hơn 500 điểm vào giữa năm 2001 và trượt dài liên tục sau đó xuống mức thấp nhất 130 điểm trong năm 2003. Cũng cần lưu ý là giai đoạn này thị trường còn sơ khai, rất ít doanh nghiệp niêm yết và thanh khoản thấp, vì vậy mức độ biến động giá và chỉ số khá cao.

Giai đoạn 2 [2004 – 2007]: Lãi suất duy trì ổn định và ở mức thấp hỗ trợ tốt cho thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp, tạo môi trường cho thị trường chứng khoán bùng nổ bên cạnh các nhân tố vĩ mô khác. Số tài khoản giao dịch của nhà đầu tư đã tăng trung bình 230%/năm [năm 2006 – 2007]. Lần đầu tiên, VN-Index chạm mốc 1.000 điểm và đạt đỉnh 1.170 điểm vào năm 2007.

Giai đoạn 3 [2008 – 2009]: Mặt bằng lãi suất và lạm phát tăng vọt, nền định giá quá cao là một trong những tác nhân gây ra đổ vỡ thị trường. Trong giai đoạn này, lãi suất sau đó đã nhanh chóng hạ nhiệt trước lo ngại suy thoái kinh tế, giá cổ phiếu cũng đã hồi phục trở lại.

Giai đoạn 4 [2010 – 2013]: Lãi suất tiếp tục tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải đặt trần lãi suất huy động 14% đi kèm là sự đổ vỡ của thị trường bất động sản khiến chứng khoán giảm mạnh.

Và Giai đoạn 5 [2014-2021]: Mặt bằng lãi suất giảm dần, trong đó giảm sâu trong giai đoạn Covid, tạo sự ổn định vĩ mô và giúp thị trường chứng khoán phát triển.

Xét về tương quan, lãi suất ảnh hưởng ngày càng lớn tới Thị trường chứng khoán. Giai đoạn 2000 – 2021, hệ số tương quan theo chuỗi dữ liệu tháng giữa mặt bằng lãi suất huy động và VN – Index là -0,33 thể hiện hai yếu tố này có mối tương quan ngược chiều. Trong đó, giai đoạn 2006 – 2021 và giai đoạn 2014 – 2021 mối tương quan ngược chiều này ngày càng chặt chẽ khi hệ số này lần lượt tăng, đạt mức mức -0,61 và -0,71.

Hệ số tương quan thể hiện mối liên hệ giữa 2 biến số với nhau và nằm trong khoảng từ -1 tới +1; khi hệ số càng gần mức +1 thể hiện mức tương quan cùng chiều càng rõ nét và ngược lại; hệ số càng gần mức 0 thể hiện 2 biến số không/ít tương quan lẫn nhau.

NHÓM NÀO HƯỞNG LỢI VÀ BẤT LỢI?

Agriseco cho rằng một số ngành có lượng tiền ròng lớn có thể hưởng lợi khi mặt bằng lãi suất tăng. Trong số các nhóm ngành chính, ngành bảo hiểm được hưởng lợi rõ nét nhất khi lãi suất tăng.

Cụ thể, với nhóm bảo hiểm nhân thọ, hiện nay, trên sàn có duy nhất doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ BVH. Mặt bằng lãi suất cao giúp cải thiện hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, lãi suất kỹ thuật tăng sẽ làm giảm giá trị trích lập dự phòng toán học trên các hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ, qua đó giúp cải thiện lợi nhuận cho doanh nghiệp. 

Với nhóm bảo hiểm phi nhân thọ, quy mô danh mục đầu tư mà tiền gửi và trái phiếu hiện nay chiếm đa số khoảng 90% [tỷ lệ tiền gửi chiếm gần 70% trong khi trái phiếu chiếm khoảng 20%], hiệu suất sinh lời đầu tư của nhóm công ty bảo hiểm phi nhân thọ sẽ gia tăng trong môi trường lãi suất tăng. Ước tính nếu lãi suất tăng 1% sẽ giúp lợi nhuận trước thuế các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tăng thêm 10,8%.

Một số ngành khác được hưởng lợi từ xu hướng lãi suất tăng do nắm giữ lượng tiền mặt lớn, ít vay nợ như: Thiết bị, Dịch vụ và Phân phối Dầu khí; Bia và đồ uống; Sản xuất Dầu khí; Vận tải;… Bên cạnh đó,  nhóm bất động sản khu công nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi trong môi trường lãi suất tăng nhờ duy trì được lượng tiền và tiền gửi ổn định khi có các khoản doanh thu chưa thực hiện lớn, đặc biệt với các doanh nghiệp nắm giữ sẵn quỹ đất sẵn sàng cho thuê.

Ngược lại, một số ngành có đòn bẩy tài chính cao có thể chịu áp lực khi tăng lãi suất như ngành xây dựng có tỷ lệ vay nợ/vốn chủ sở hữu khoảng 1,18 lần, ngành bán lẻ [1,13 lần], dịch vụ tài chính [1,09 lần], công nghệ thông tin [0,9 lần], điện [0,81 lần], sản xuất thực phẩm [0,74 lần], vật liệu xây dựng [0,63 lần], BĐS [0,53 lần],...

Trong số các nhóm ngành chính, ước tính ngành xây dựng bị ảnh hưởng lớn nhất khi lãi suất tăng 1% sẽ khiến lợi nhuận trước thuế toàn ngành giảm khoảng 14% trong điều kiện các nhân tố khác không đổi.

Một số ngành khác có mức độ sụt giảm lợi nhuận mạnh khi lãi suất tăng 1% như Sản xuất và phân phối điện [-6%], Bán lẻ [-4,7%], Vật liệu xây dựng và nội thất [-4,5%]. Riêng đối với nhóm bất động sản thì mặc dù tác động chung là -3,7% tuy nhiên tác động tới nhóm bất động sản dân cư sẽ cao hơn so với nhóm Bất động sản khu công nghiệp do có tỷ lệ vay nợ cao hơn.

Video liên quan

Chủ Đề