Tết cổ truyền của người khmer nam bộ được gọi là gì ? tổ chức khi nào?

Nghi thức Chư tăng làm lễ cầu an, cầu siêu trong ngày

tết Chôl Chnăm Thmây, tại chùa Xiêm Cán, thành phố Bạc Liêu

Hàng năm cứ đến trung tuần tháng tư dương lịch, đồng bào dân tộc Khmer nô nức đón mừng tết truyền thống Chôl Chnăm Thmây. Theo Phật lịch: 2557 của Phật giáo Nam tông Khmer [tức đầu tháng Chét là khoảng giữa tháng 4 dương lịch], dân tộc Khmer Bạc Liêu nói riêng, cũng như mọi người dân tộc Khmer cả nước nói chung, đều tiến hành lễ vào năm mới của dân tộc mình. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc Khmer, là lúc giáp nắng và mùa mưa, là thời kỳ kết thúc mùa nắng chuẩn bị bước sang mùa mưa. Đây là thời điểm trời đất giao hòa, muôn cây xanh tốt, đâm chồi nảy lộc được người Khmer quan niệm là sự khởi đầu cho một năm mới gọi là Chôl Chnăm Thmây [vào năm mới].

 Tết Chôl - Chnăm - Thmây còn gọi là tết “chịu tuổi”, năm nay tết diễn ra trong ba ngày [từ ngày 14,15 và 16 tháng 4 dương lịch], thông thường những ngày này người Khmer tập trung vào chùa. Tại chùa các vị Chư tăng tổ chức lễ với những nghi lễ, ý nghĩa khác nhau. Ngày thứ nhất có tên gọi Sang-kran “bước đi, tiến tới”. Ngày thứ hai gọi Wana-bot “thiếu hoặc thừa”. Ngày thứ ba gọi Lơn-stk tiến lên, tăng lên”. Gần đến ngày Tết các vị chức việc của các chùa Phật giáo Nam tông Khmer như [A-Cha, Ban quản trị], quy tựu các con em Phật tử, mọi người cùng với Chư tăng tập trung dọn dẹp, trang trí sơn phết lại ngôi chùa với nhiều màu sắc sặc sỡ rất đẹp.

Còn nhà các gia đình đồng bào dân tộc Khmer nào cũng tập trung ăn mặc đẹp, mọi nhà đều sửa sang, quét dọn, trang trí lại, chuẩn bị đồ ăn, thức uống, bánh trái, hoa quả, cá thịt… tất cả đều sẵn sàng đầy đủ cho những ngày tết. Cho giàu hay nghèo đều không thể thiếu được Num-Chrụt [bánh tét], Num-tean [bánh ít] và Num-Kha-Nhây [bánh gừng]… các loại bánh này tượng trưng cho sự no ấm, làm ăn thịnh vượng, được mùa của người Khmer, dùng để cúng trên bàn thờ ông bà tổ tiên; dùng làm lễ vật, đi chùa và để tiếp khách trong những ngày tết.

Đêm giao thừa năm nay diễn ra [lúc 02h12 phút, ngày 13/4 dương lịch] mọi nhà đều thắp nhang đèn, hoa quả, ly nước ướp hương hoa… cúng trên bàn thờ trước sân nhà để tiễn vị Chư thiên cũ [Khmer gọi là Thần u-va-đa] và rước vị Thần u-va-đa mới xuống cai quản đất đai, thổ trạch. Đồng bào dân tộc Khmer tin rằng hàng năm Thần u-va-đa đều luân phiên nhau xuống  một vị để cai quản dương thế trong một năm. Cho nên, đồng bào dân tộc Khmer rất tôn kính, ngưỡng mộ và trong đêm giao thừa mọi người ngồi xếp chân trước bàn thờ sân nhà, khấn vái để vị Thần Têu-va-đa năm mới ban phước lành cho cả gia đình trong năm.

Sáng thứ nhất ngày 4/3 âm lịch [nhằm ngày 14/4 dương lịch] gọi là ngày Chôl Sang-kran Thmây, mọi người tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc đẹp, đem theo nhang, đèn, phẩm vật đến chùa làm lễ rước đại lịch [Ma-ha-sang-kran]. Maha sang-kran đặt trong khay sơn son thếp vàng đưa lên kiệu khiêng, theo sự hướng dẫn của vị A-Cha, Ban quản trị, đồng bào Phật tử Khmer mọi người đứng xếp hàng đi quanh chánh điện ba vòng, sau đó vào bên trong chánh điện Tụng kinh lễ bái Tam bảo để chào mừng năm mới. Đến đêm những người Phật tử lớn tuổi vân tập trong ngôi giảng đường hoặc chánh điện nghe Chư tăng thuyết pháp, còn lớp thanh niên nam nữ trẻ tuổi thì ra sân chùa tổ chức các trờ chơi dân gian và xem văn nghệ truyền thống như múa Rom vong, Rô băm, Du kê, phim ảnh. 

Ngày tết thứ hai ngày 5/3 âm lịch [nhằm ngày 15/4 dương lịch] gọi là ngày Wanabot, sáng mọi người làm lễ dâng huê ẩm thực đến Chư tăng, đến chiều thì đắp những núi cát [còn gọi Puôn-Panum-Khsách] thành nhiều ngọn núi nhỏ theo tám hướng và một núi ở trung tâm, tượng trưng cho sự bền vững của vũ trụ. Tục lệ này dẫn đến tích truyện lâu đời… và cho Phật tử thắp hương để cầu cho mưa thuận gió hòa trong năm và cầu phúc theo sự ước nguyện của mình.

Ngày tết thứ ba 6/3 âm lịch [nhằm ngày 16/4 dương lịch] gọi là Lơn-stk là ngày có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào Khmer, buổi sáng mọi người đến chùa dâng huê ẩm thực đến Chư tăng, Chư tăng cùng mọi người tắm các tượng Phật, giữa trưa cùng ngày, A-Cha, Ban quản trị đại diện đồng bào Phật tử Khmer cung thỉnh Chư tăng làm lễ cầu siêu [Khmer gọi là Băng-Sa-Kôl] để hồi hướng phước đến vong linh những người đã mất có quan hệ quyết thống với mình, nhất là những người có công tạo lập, các vị sư sãi quá cố đã hy sinh vì Đạo pháp dân tộc, các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Quốc gia dân tộc.

Buổi chiều đồng bào Khmer mọi người đều Cung thỉnh Chư tăng đến gia đình Tụng kinh cầu siêu cho bàn thờ tổ tiên và những mộ phạm vi gia tộc mình thể hiện lòng thành kính tri ân đến tổ tiên, ông bà đã quá cố trong năm. Chùa Phật giáo Nam tông Khmer là nơi sinh hoạt văn hóa, là chỗ dựa tinh thần, là nơi tín ngưỡng tôn nghiêm nhất dành cho cả cộng đồng. Nên bất kỳ tổ chức cuộc lễ, hay tết của đồng bào dân tộc Khmer cũng đều được diễn ra hoặc kết thúc tại chùa. Trong những ngày tết, một số chùa có đông đồng bào dân tộc Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Khmer Bạc Liêu đến diễn xuất các tuồng cổ truyền thống để phục vụ, còn lại các chùa đều có tổ chức tiết mục văn nghệ, nhạc ngũ âm, trò chơi vui dân gian, để cho nam nữ thanh niên con em đồng bào dân tộc Khmer vui chơi ca hát thỏa thích thưởng thức các điệu múa “Rom vong, Rô băm”… tại sân chùa. Đây cũng là dịp để họ tìm hiểu nhau, hò hẹn và phô bày tình cảm, và nhiều đôi đã nên vợ nên chồng.

Có thể nói, Tết Chôl Chnăm Thmây không chỉ thể hiện quan niệm của người Khmer về chu kỳ vận chuyển của năm, mà còn nhằm giáo dục con người về tấm lòng hiếu thảo, đoàn kết gắn bó thắt chặt tình đoàn kết thương yêu nhau trong phum sóc, cũng là dịp để mọi người gặp gỡ nhau chia phúc, chúc mừng, thăm hỏi, bàn bạc, trao đổi kinh nghiệp chuyện tương lai. Những ngày tết Chôl Chnăm Thmây này đã làm cho 3 dân tộc, Kinh, Khmer, Hoa luôn gắn chặt tình làng nghĩa xóm, tinh thần đoàn kết với cộng đồng. Bên cạnh đó, Tết Chôl Chnăm Thmây còn là dịp để đồng bào dân tộc Khmer gửi gắm ước mơ hạnh phúc, ý thức hướng thiện và lòng báo ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mình trong năm./.

Đồng bào Khmer Nam Bộ có nền văn hóa giàu bản sắc, được lưu giữ qua nhiều thế hệ. Trong nền văn hóa ấy, lễ hội nổi lên như một điểm nhấn. Tại lễ hội của bà con Khmer Nam Bộ, người ta cảm nhận được rất nhiều khía cạnh khác nhau, và trên hết đó là sự cuốn hút khó cưỡng. Người Khmer Nam Bộ có nền văn hóa hết sức đa dạng và phong phú được lưu giữ qua nhiều thế hệ và lễ hội là một trong những nét văn hóa đặc sắc tạo nên văn hóa đặc trưng của người Khmer Nam bộ.

Theo phong tục, tập quán của người Khmer, trong năm họ có hơn 30 lễ lớn nhỏ và được chia ra làm 2 loại, thứ nhất là những lễ định kỳ hàng năm [có 08 lễ lớn] và thứ hai là những lễ được tổ chức không định kỳ. Những lễ định kỳ được sắp xếp theo thứ tự thời gian trong năm gồm:

Lễ Meka bâu chia

Lễ Meka bâu chia, còn gọi là Lễ Đức Phật cho biết 3 tháng nữa sẽ nhập niết bàn [tính theo dương lịch thì khoảng đầu tháng 2].

Lễ Chol Chnam Thmay

Lễ Chôl Chnăm Thmây, là Tết cổ truyền của người Khmer Nam Bộ. Đó là những ngày thật tưng bừng được diễn ra tại chùa và các phum sóc. Trong tiếng Khmer, “Chol Chnam Thmay” có nghĩa là “Mừng năm mới”. 

Chol Chnam Thmay diễn ra vào giữa tháng 4 dương lịch. Lúc ấy, bà con dù đi đâu xa hoặc bận công việc làm ăn thì cũng đều về nhà, về phum sóc để dự lễ. Những ngày ấy, người ta đến nhà nhau thăm hỏi sức khỏe, chúc gặp may mắn và sức khỏe. Còn trong từng gia đình, bao giờ cũng được trang trí đẹp mắt, dọn dẹp sạch sẽ. Người người mua sắm lễ vật nhang đèn và hoa quả. Nhiều mâm lễ được đội vào chùa để làm lễ đón năm mới.

Lễ Chol Chnam Thmay – Têt cổ truyền của đồng bào Khmer

Lễ hội Chol Chnam Thmay diễn ra tong 3 ngày 14, 15 và 16 – 4, sau khi mùa màng thu hoạch. Tết này cũng có nghĩa là mở đầu cho một thời vụ mới. Trong ngày đầu của Lễ, các thành viên trong gia đình quây quần bên bàn thờ tổ tiên cúng vái tiễn Thần coi sóc cũ, đón Thần coi sóc mới.

Ngày thứ hai có tục “đắp núi cát”, mang  ý nghĩa ngăn trở ma quỷ và những điều xấu, đồng thời nhắc nhở mọi người không ngừng tạo phúc ngày một cao vời, lớn lao như núi. Còn trong ngày cuối cùng, bà con tiến hành lễ tắm Phật. Đây là lễ rất lớn và trang trọng. Bà con dùng những nhánh hoa nhúng vào nước sạch vẩy lên tượng Phật, sau đó tắm cho các vị sư cao niên, các ngôi tháp đựng hài cốt các vị sư đã viên tịch,… Nghi lễ này mang theo niềm tin rằng sẽ được Phật tha thứ cho những lỗi lầm thiếu sót trong năm cũ, ban nhiều sức khỏe, phum sóc yên ổn.

Trong lễ tết Chol Chnam Thmay, người ta tổ chức nhiều cuộc vui văn nghệ với các điệu dù kê, rô băm, múa lâm thôn,… tại sân chùa. 

Lễ Phật đản

Visak bâu chia, Lễ Phật đản, lễ này được diễn ra trong một ngày một đêm 15/5 âm lịch tại chùa.

Lễ Chôl Vôsa

Với đồng bào Khmer Nam Bộ, Lễ Chôl Vôsa, Lễ Nhập hạ cũng vô cùng quan trọng. Cứ đến ngày 15-6 âm lịch hàng năm, bà con lại tổ chức Lễ Nhập hạ, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, gia đình yên vui hạnh phúc. Lễ này cũng là dịp để bà con dâng các vật dụng sinh hoạt cho các chư tăng tại chùa.

Với đồng bào Khmer Nam Bộ, Lễ Nhập hạ vô cùng quan trọng

Lễ Nhập hạ gồm 2 ngày chính. Ngày thứ nhất diễn ra vào buổi chiều, bà con sẽ đem lễ vật đến chùa để làm lễ. Người ta thắp những cây nến rất lớn trong chùa, những ngôi chùa trở nên lung linh huyền ảo. Ngày thứ hai, bà con đem cơm, nước, gạo… đến chùa dâng lên sư sãi để cầu siêu cho người quá cố và cầu bình an, hạnh phúc cho phum sóc.

Lễ Nhập hạ diễn ra trong 3 tháng [từ ngày 15-6 đến 15-9 âm lịch], đây cũng là thời điểm mùa mưa, thuận lợi cho việc gieo trồng và cày cấy. Đây cũng được coi là lễ thuần nông gắn với tư tưởng Phật giáo, phù hợp với cuộc sống truyền thống của người Khmer Nam Bộ.

Lễ Cúng ông bà

Lễ Phchum Bunl hay Pithi Sene Dolta, Lễ Cúng ông bà. Lễ được diễn ra trong ba ngày chính từ 29 tháng 8 đến mùng 01 tháng 9 âm lịch với nhiều nghi lễ tại các chùa. Đây là một trong ba lễ hội lớn nhất của đồng bào Khmer. Với lễ Dolta, bà con thường tổ chức vào ngày 29 – 8 âm lịch hàng năm, là lễ hội thể hiện rất rõ nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Khmer Nam Bộ. 

Dolta còn được gọi là lễ cúng ông bà, tương tự như lễ Vu Lan của người Việt nên còn được gọi là lễ “xá tội vong nhân”. Lễ là dịp để mọi người tưởng nhớ công ơn ông bà, cha mẹ và người thân, tạ ơn những người đã khuất và cầu phúc cho những người đang sống.

Trong lễ Dolta, hội đua bò là điểm nhấn đặc biệt

Lễ Dolta được tổ chức trong 3 ngày, trong thời gian đó các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán diễn ra đan xen. Ngày thứ nhất, là dọn dẹp nhà cửa, bàn thờ tổ tiên và bày mâm cúng, khấn ông bà tổ tiên về dự lễ. Ngày thứ hai, mời linh hồn ông bà tổ tiên vào chùa nghe sư sãi tụng kinh, đến trưa thì đưa linh hồn ông bà về nhà. Ngày thứ ba, nhiều nhà mời bà con lối xóm, sư sãi đến nhà tụng niệm. Đến chiều tối, các hoạt động vui chơi, văn nghệ được tổ chức.

Trong lễ Dolta, hội đua bò là điểm nhấn đặc biệt thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Cũng giống như đua ghe ngo, người ta không tính nhiều đến giá trị tiền thưởng, mà coi trọng vinh dự khi cặp bò của mình thắng cuộc. 

Lễ Chanh Vôsa

Lễ Chanh Vôsa, Lễ Ra hạ, lễ diễn ra từ chiều ngày 14 đến trưa ngày 15/9 âm lịch. Đây là lễ chấm dứt 3 tháng nhập hạ của các vị sư sãi.

Lễ Kathina

Kathina, Lễ Dâng y cà sa cho sư sãi, không nhất định ngày. Theo quy định của Phật giáo Nam tông, các chùa chỉ được tổ chức lễ Dâng Y mỗi năm một lần và tổ chức lần lượt trong khoảng 1 tháng [từ 16/9 đến 15 tháng 10 âm lịch]. Đây là mùa Dâng Cà sa của Phật tử đến các vị sư sãi, Cà sa Kathina là chiếc y màu vàng dành cho các vị sư sãi, là y phục mà họ sử dụng trong quá trình tu hành của mình.

Lễ Ok Om Bok

Lễ Ok Om-bok được diễn ra vào đầu tháng 12 dương lịch hàng năm, nhằm tưởng nhớ và tạ ơn Mặt Trăng vốn được người Khmer Nam Bộ coi như một vị thần vận hành mùa màng. Trong lễ, không thể thiếu món cốm dẹp cùng với các loại củ, trái cây. Như vậy, đây có thể được coi là một lễ hội mùa màng của cư ân nông nghiệp vùng sông nước. Trong lễ hội, người ta cũng tổ chức nhiều cuộc vui, trong đó có  đua ghe ngo, thả đèn nước, đèn trời.

Lễ Ok Om-bok thường diễn ra vào đêm rằm tháng 10 âm lịch, tại sân chùa, sân nhà, hoặc một khu đất trống nào đó để cho Mặt Trăng luôn tỏa sáng. Sau khi người già cúng xong, lũ trẻ được sắp hàng dọc, được người lớn đút thức cúng vào miệng, hết em này đến em khác. Như vậy,  đứa trẻ đã  nhận được lộc của thần Mặt Trăng.

Đua ghe Ngo trong Lễ Ok Om Bok

Cũng cần nói thêm về tục thả đèn gió và đua ghe ngo được tổ chức trong Lễ Ok Om-bok. Có 2 loại đèn: vuông và tròn, nhưng đèn tròn phổ biến hơn. Trong đêm, hàng chục chiếc đèn bay lên cao, người ta tin rằng những chiếc đèn đã mang đi tai ương, rủi ro bất trắc để phum sóc yên bình.  

Còn cuộc đua ghe Ngo chính là môn thể thao dân gian truyền thống của bà con Khmer Nam Bộ. Ghe Ngo là loại làm bằng gỗ, dài khoảng 10 mét hoặc dài hơn, thường thì được làm từ gỗ Sao. Đây là một loại ghe thiêng dành cho nghi lễ đua ghe trong lễ hội Ok Om Bok, đầu ghe gắn hai phù điêu hình mắt rắn, hai bên mạng và đầu ghe trạm trỗ đầu rồng, đầu lân, hay đầu phụng hoặc vẽ hoa văn truyền thống, mỗi chiếc có thể chứa được từ 20 đến 60 người bơi đứng hai bên. Đua ghe Ngo thường diễn ra ở các khu vực có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống như Sóc Trăng, Trà Vinh…

Ngoài những lễ hội định kỳ hàng năm, người Khmer Nam bộ còn tổ chức nhiều lễ không định kỳ, đây là những lễ không quy định về thời gian, chẳng hạn như Lễ kiết giới Sâyma, lễ cưới, lễ tang… một số lễ không được tổ chức định kỳ thường gặp:

Lễ An vị tượng Phật [Bon Putthea Phi Sek], Lễ an vị tượng Phật có nghĩa là tôn trí đức Phật vào một nơi cố định để hằng ngày các vị sư sãi, bà con đến để đốt nhang đọc kinh. Lễ được tổ chức trang trọng nhằm đem tượng Phật vào chùa thờ, nếu không làm lễ này thì tượng Phật không đủ quy cách và điều kiện để đặt tại chùa.

Lễ khánh thành Chính điện hay còn gọi là Lễ Kiết giới Sâyma [Bon Seyma]. Lễ chỉ diễn ra khi ở ngôi chùa Khmer vừa xây xong hoặc đại trùng tu ngôi chính điện. Lễ thường diễn ra trong 3 ngày, bà con Khmer đến rất đông để chúc mừng cho chùa và cầu phúc cho bản thân cùng gia đình, và họ tin rằng trong đời ai tham dự được 9 lần lễ Kiết giới Sâyma thì kiếp sau sẽ được làm người giàu sang danh giá.

Lễ Ngàn núi [Bon Phnôm Pôn]. Đây là nghi lễ làm phước với mục đích xin lỗi thú vật tha thứ cho con người, được tổ chức vào mùa hạ [khoảng tháng giêng đến tháng ba âm lịch kéo dài từ 2 đến 3 ngày dưới sự hướng dẫn của vị Achar hay sư sãi]. Theo quan niệm trong dân gian, người Khmer cho rằng đối với mọi sinh vật họ đều có lỗi vì đã giết chúng để ăn thịt. Họ lo sợ khi con người qua đời sẽ bị các loài thú kéo nhau trả thù và linh hồn người chết phải xuống địa ngục, do đó, đồng bào trong phum sóc hàng năm thường tổ chức Bon Phnôm Pôn để tạ lỗi. Lễ này cũng tương tự như Lễ đắp núi cát trong dịp tết Chôl Chnăm Thmây nhưng về quy mô lớn hơn nhiều.

Lễ Chúc thọ [Bon Châm Rơn Preak Chôl]. Đây là lễ nhằm báo ơn, đáp nghĩa những người có công lao nuôi dỡng, dạy dộ mình như ông bà cha mẹ, thầy cô giáo.

Lễ Dâng bông [Bôn Phka]. Đây có thể gọi là Lễ làm phước, vì khi người Khmer cần xây dựng các công trình như đường xá, trường học, chùa… thì họ tổ chức lễ này nhằm quyên góp tiền của để xây dựng, lễ thường tổ chức tại chùa do các vị sư sãi trong chùa chủ trì.

Lễ Cầu an [Bon Kâm San Srok]. Đây là lễ được người Khmer tổ chức sau mùa vụ với mục đích mừng thành quả lao động vất vả sau mấy tháng và cầu cho xóm làng vui khỏe, trúng mùa vụ sau. Lễ này do từng gia đình tổ chức hoặc nhiều nhà cùng tổ chức và thỉnh vị sư đến tụng kinh cầu phước.

Ngoài những lễ thường thấy đã trình bày, người Khmer Nam bộ còn nhiều lễ hội khác nữa được tổ chức trong năm, có những lễ nằm trong lễ chẳng hạn trong Lễ tết Chôl Chnăm Thmây có Lễ tắm Phật, Lễ cầu siêu cho những người đã khuất hay lễ đắp núi cát… Có một số lễ vẫn còn giữ được giá trị nguyên bản và có một số lễ không còn phổ biến nữa chẳng hạn lễ “cắt tóc để trả ơn mụ” giờ được thay thế bằng việc tổ chức đầy tháng cho bé hay lễ cưới của người Khmer hiện nay thì các nghi lễ thuần túy cũng có nhiều thay đổi do quá trình cộng cư với người Kinh, Hoa và các dân tộc khác và chịu ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc.

Video liên quan

Chủ Đề