Tiêu luận xác định giá trị tài liệu

Tài liệu "Luận án TS sử học Xác định giá trị tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận danh mục TL tham khảo" có mã là 243154, file định dạng pdf, có 10 trang, dung lượng file 140 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Văn hóa nghệ thuật > Lịch sử. Tài liệu thuộc loại Đồng

Nội dung Luận án TS sử học Xác định giá trị tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận danh mục TL tham khảo

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Luận án TS sử học Xác định giá trị tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận danh mục TL tham khảo để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 10 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Luận án TS sử học Xác định giá trị tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận danh mục TL tham khảo

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.


CHƯƠNG 5

 XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU

I. KHÁI NIỆM

Tài liệu là các loại công văn, giấy tờ hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức cá nhân. Thực tế hàng ngày, hàng giờ khối lượng tài liệu sản sinh ra trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân ngày càng gia tăng, không thể tính được một cách chính xác. Có những tài liệu được sản sinh ra nhằm giải quyết những công việc trước mắt và khi công việc được giải quyết xong cũng là lúc người ta không cần đến những tài liệu đó nữa. Nhưng có những tài liệu không chỉ để giải quyết những công việc trước mắt, mà nội dung thông tin trong tài liệu đó còn có thể giúp cho việc tra cứu, xác minh, tổng kết các vấn đề ở những giai đoạn tiếp theo. Những tài liệu này cần được lưu trữ lại để phục vụ cho những lợi ích lâu dài của quốc gia và của các cơ quan, tổ chức.

Như vậy, không phải toàn bộ tài liệu khi sản sinh ra đã là tài liệu lưu trữ mà tài liệu lưu trữ là những tài liệu có giá trị hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cần được lưu lại, giữ lại để phục vụ mục đích thực tiễn và nghiên cứu khoa học, lịch sử. Nếu như toàn bộ tài liệu do các cơ quan, tổ chức, cá nhân sản sinh ra đều được lưu lại và giữ lại thì chúng ta sẽ không có đủ diện tích kho tàng, trang thiết bị và con người làm công tác bảo quản nó. Và chỉ trong một vài năm, lượng tài liệu sản sinh ra trong một cơ quan, tổ chức sẽ chất đống và chiếm mất chỗ làm việc của cán bộ trong cơ quan, gây tình trạng không tốt đến sức khỏe cán bộ và năng suất công việc. Thực tế này đòi hỏi các cơ quan lưu trữ phải nghiên cứu, xác định giá trị để lựu chọn những tài liệu cần lưu trữ.

Xác định giá trị tài liệu là dựa trên những nguyên tắc, tiêu chuẩn và phương pháp của lưu trữ học để quy định thời hạn bảo quản cho từng loại tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo giá trị của chúng về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học lịch sử và các giá trị khác. Từ dó lựa chọn những tài liệu có giá trị bảo quản trong phông lưu trữ quốc gia đồng thời loại ra những tài liệu hết giá trị để tiêu huỷ.

Mục đích của xác định giá trị tài liệu là định ra được thời hạn bảo quản của tài liệu trong các phòng, kho lưu trữ và góp phần tối ưu hóa thành phần trong các phông lưu trữ cơ quan, phông lưu trữ quốc gia. Xác định giá trị tài liệu tác động trực tiếp đến số phận của tài liệu. Do đó, việc xác định giá trị tài liệu cần đảm bảo yêu cầu về tính chính xác và thận trọng, tránh những sai sót đáng tiếc làm ảnh hướng đến giá trị vốn có của một tài liệu lưu trữ. Đồng thời cũng cần có cơ sở khoa học và thực tiễn để không lưu trữ những tài liệu không có giá trị trong kho, gây những lãng phí không cần thiết về nhân lực và kinh tế.

Việc thực hiện tốt công tác xác định giá trị tài liệu sẽ góp phần lựa chọn được những tài liệu có giá trị đích thực để bảo quản tại lưu trữ cơ quan và là nguồn bổ sung có chất lượng vào phông lưu trữ quốc gia, đồng thời cũng lược bớt được những tài liệu không có giá trị để loại bỏ khỏi lưu trữ cơ quan, không đưa những tài liệu ít giá trị hoặc không có giá trị lịch sử vào bảo quản tại phông lưu trữ quốc gia. Điều đó góp phần vào việc tối ưu hóa thành phần phông lưu trữ quốc gia, nâng cao chất lượng của tài liệu trong phông. Tài liệu phông lưu trữ quốc gia có chất lượng cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác phục vụ khai thác sử dụng tài liệu và tiết kiệm kho tàng, trang thiết bị bảo quản tài liệu.

Để định được thời hạn bảo quản tài liệu một cách chính xác cần xem xét đánh giá giá trị đích thực của tài liệu.

1.1 Giá trị tài liệu được đánh giá, xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau song tập trung chủ yếu vào hai loại giá trị sau:

- Giá trị thực tiễn của tài liệu là giá trị của những nội dung thông tin chứa đựng trong tài liệu. Những thông tin đó có thể phục vụ hoạt động quản lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cụ thể như: cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động quản lý, hoạt động thanh tra, kiểm tra, theo dõi, đôn đốc công việc… Những tài liệu là các văn bản quản lý nhà nước sẽ cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về hành lang pháp lý trong lĩnh vực hoạt động của mình. Từ đó giúp các cơ quan, tổ chức và cá nhân xác định được một cách chính xác những công việc mình đang làm để đạt hiệu quả tối ưu.

Giá trị thực tiễn của tài liệu không chỉ giới hạn trong phạm vi những thông tin về công việc còn đang giải quyết mà giá trị thực tiễn của tài liệu còn thể hiện trong việc sử dụng những thông tin đó để kiểm tra, xem xét các hoạt động đã qua của cơ quan, tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định tại giai đoạn lưu trữ hiện hành của cơ quan sản sinh tài liệu. Như vậy, có thể nói giá trị thực tiễn của tài liệu chính là giá trị hiện hành của tài liệu. Sau khi công việc kết thúc, tài liệu về công việc đó vẫn được lưu trữ và phục vụ khai thác, sử dụng tại lưu trữ hiện hành của cơ quan trong thời gian mười năm đối với các cơ quan trung ương và năm năm đối với các cơ quan địa phương. Khi tài liệu được nộp lưu vào lưu trữ lịch sử coi như chấm dứt khoảng thời gian giá trị hiện hành của tài liệu, những thông tin trong tài liệu đã phát huy hết giá trị để phục vụ công việc thực tiễn hàng ngày. Những tài liệu được đưa vào bảo quản và tổ chức khai thác, sử dụng tại lưu trữ lịch sử là những tài liệu có giá trị lịch sử.

- Giá trị lịch sử của tài liệu là giá trị của bản thân tài liệu và những thông tin chứa đựng trong tài liệu phục vụ cho nhu cầu khai thác lâu dài của xã hội sau khi tài liệu đã hết giá trị hiện hành. Giá trị vốn của tài liệu không chỉ thể hiện ở nội dung thông tin mà còn thể hiện ở các yếu tố như: ngôn ngữ, chất liệu chế tác và hình thức của tài liệu. Giá trị thông tin chứa đựng trong tài liệu là ý nghĩa nội dung tài liệu. Thực tế tài liệu có giá trị lịch sử thường chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số tài liệu đã được lưu trữ tại lưu trữ hiện hành. Những tài liệu có giá trị lịch sử được định thời hạn bảo quản lâu dài hoặc vĩnh viễn.

Xác định giá trị tài liệu được tiến hành ở ba bước: tại giai đoạn văn thư cơ quan, tại lưu trữ hiện hành của cơ quan sản sinh tài liệu và tại lưu trữ lịch sử. Trong từng giai đoạn, đối với từng loại tài liệu cần vận dụng linh hoạt những nguyên tắc, phương pháp và tiêu chuẩn phù hợp.

1.2 Để thực hiện mục đích đề ra, công tác xác định giá trị tài liệu bao gồm những nội dung cụ thể sau:

- Nghiên cứu và xác định rõ những nguyên tắc, phương pháp và tiêu chuẩn cần vận dụng trong quá trình xác định giá trị của từng loại tài liệu trong từng giai đoạn cụ thể.

- Xác định thời hạn bảo quản cho từng hồ sơ, tài liệu.

- Xây dựng bảng thời hạn bảo quản mẫu cho từng loại cơ quan và các công cụ khác phục vụ cho công tác xác định giá trị tài liệu.

- Lựa chọn những tài liệu có giá trị để bảo quản lâu dài, vĩnh viễn trong các trung tâm lưu trữ quốc gia.

- Loại huỷ những tài liệu hết giá trị.

Những nội dung trên là những nội dung quan trọng của công tác xác định giá trị tài liệu và cần được thực hiện một cách đồng bộ. Song với tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay công tác xác định giá trị tài liệu vẫn còn nhiều bất cập.

Người cán bộ lưu trữ cần nắm chắc mục đích, yêu cầu và nội dung của công tác xác định giá trị tài liệu, biết vận dung linh hoạt trong thực tế hoạt động của cơ quan. Từ đó, người cán bộ lưu trữ sẽ tham mưu cho lãnh đạo những ý kiến chỉ đạo công tác xác định giá trị tài liệu tại văn thư và lưu trữ cơ quan. Đồng thời việc nắm chắc những nội dung đó sẽ giúp người cán bộ lưu trữ quá trình hoạt động của cá nhân người lãnh đạo một cách chính xác và khoa học.

II. CÁC NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU

Nguyên tắc là những quy định, phép tắc làm cơ sở để xem xét, đánh giá hoặc thực hiện một công việc nào đó trong thực tế. Nói cách khác, muốn thực hiện công việc một cách khoa học, đạt được hiệu quả cao chúng ta cần tuân theo những nguyên tắc nhất định.

Xác định giá trị tài liệu cần được thực hiện một cách khoa học, chính xác và hiệu quả nên cũng cần tuân theo những nguyên tắc nhất định. Theo lý luận và thực tiễn của lưu trữ học, công tác xác định giá trị tài liệu cần tuân theo ba nguyên tắc sau:

1. Nguyên tắc chính trị

Bất cứ một tài liệu nào khi sản sinh ra cũng mang những dấu ấn thể hiện thái độ chính trị của cơ quan, tổ chức, cá nhân sản sinh ra nó. Tính chính trị còn thể hiện rõ trong nội dung của tài liệu, trong mục đích của việc ban hành tài liệu. Vì vậy, khi xác định giá trị của bất cứ quốc gia nào, cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào người ta cũng cần tuân theo nguyên tắc chính trị.

Nội dung cơ bản của nguyên tắc chính trị là khi xác định giá trị tài liệu cán bộ lưu trữ cần đứng trên lập trường, tư tưởng, quan điểm của giai cấp thống trị. Ở Việt Nam, xác định giá trị tài liệu cần đứng trên quan điểm, lập trường của nhân dân lao động mà đại diện là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, cán bộ lưu trữ cần lựa chọn những tài liệu mà xét thấy có lợi Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Khi xác định giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam, đứng trên lập trường, tư tưởng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta cần:

- Lựa chọn những tài liệu có lợi cho nhân dân, cho dân tộc, cho quốc gia và cho Đảng để bảo quản lâu dài và vĩnh viễn trong các lưu trữ lịch sử.

- Đảng ta quan niệm tài liệu lưu trữ là di sản văn hóa của dân tộc, là tài sản quốc gia. Điều đó được ghi nhận trong Pháp lệnh Lưu trữ 2001 và những văn bản khác của Đảng và Nhà nước. Tài liệu lưu trữ là những chứng cứ, nguồn sử liệu để nghiên cứu và tái hiện lại lịch sử dân tộc, là kênh thông tin quan trọng để truyền đạt những thông điệp lịch sử cho thế hệ sau một cách chân thực nhất. Vì vậy, việc xác định gía trị tài liệu cần đứng trên quan điểm bảo vệ nguồn di sản văn hóa thiêng liêng của dân tộc, của quốc gia và của đảng, không lấy việc loại bỏ những tài liệu hết giá trị ra khỏi phông là mục đích chủ yếu và hàng đầu.

- Những tài liệu được sản sinh từ các thời kỳ lịch sử khác nhau, dưới chế độ chính trị khác nhau song có ý nghĩa phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử của Đảng và Nhà nước cũng cần được lựa chọn và bảo quản lâu dài, vĩnh viễn trong các lưu trữ lịch sử. Những tài liệu đó sẽ góp phần giúp thế hệ sau nhìn nhận về lịch sử dân tộc một cách xác thực và toàn diện.

2. Nguyên tắc lịch sử

Bất cứ một tài liệu nào bản thân nó cũng chứa đựng những dấu ấn của thời kỳ lịch sử sản sinh ra nó qua những yếu tố nội dung hoặc hình thức tài liệu. Nhìn vào những tài liệu được khắc trên các bản gç thị, bằng chữ Hán chúng ta có thể khẳng định rằng đó là tài liệu sản sinh trong thời đại Phong kiến ở Việt Nam, nên có giá trị đặc biệt. Vì vậy, khi xác định giá trị tài liệu cần phải tuân theo nguyên tắc lịch sử.

Áp dụng nguyên tắc này, khi xác định giá trị tài liệu chúng ta cần xem xét đến những điều kiện hoàn cảnh lịch sử mà tài liệu được sinh ra. Nói cách khác, xác định giá trị tài liệu không dựa vào quan điểm chủ quan của thời kỳ hiện đại để đánh giá những tài liệu sản sinh trong thời quá khứ mà phải đặt tài liệu vào bối cảnh lịch sử sản sinh ra nó. Đó là những yếu tố về thời gian, địa điểm và điều kiện hình thành tài liệu.

Như vậy, để tuân theo nguyên tắc này người làm công tác xác định giá trị tài liệu cần phải có kiến thức về lịch sử và kiến thức về sử liệu học, văn bản học, ngôn ngữ học. Có như vậy, tính chân thực của tài liệu mới được làm sáng tỏ.

Chẳng hạn: Áp dụng nguyên tắc này, cán bộ lưu trữ cần lựa chọn những tài liệu mà nội dung của nó phản ánh rõ nét những sự kiện lịch sử quan trọng đã xảy ra, diễn ra trong quá khứ.

Nguyên tắc này cũng được áp dụng khi xem xét giá trị của những tài liệu thời Phong kiến, tài liệu thời Pháp thuộc, tài liệu thời kháng chiến. Một số tài liệu sản sinh trong những thời điểm lịch sử ấy có thể không có giá trị lớn về nội dung song nó lại là những chứng cứ quan trọng để nghiên cứu về lịch sử văn bản học, lịch sử ngôn ngữ học và một số ngành khoa học khác thông qua những dấu ấn được thể hiện trên hình thức và văn phong của tài liệu.

3. Nguyên tắc toàn diện tổng hợp

Toàn diện tổng hợp tức là cái nhìn tổng quát các khía cạnh từ trong ra ngoài để có những đánh giá xác thực về một sự vật, hiện tượng. Xét về tài liệu lưu trữ, khi xác định giá trị tài liệu chúng ta cần có cái nhìn bao quát và khách quan về cả nội dung, hình thức và điều kiện sản sinh tài liệu. Bởi lẽ, nội dung và hình thức của tài liệu không chỉ có ý nghĩa về một lĩnh vực nhất định và xét trên từng khía cạnh cụ thể nó sẽ có những lợi ích khác nhau.

Áp dụng nguyên tắc này khi xác định giá trị tài liệu để đảm bảo một cách chính xác chúng ta cần đặt tài liệu trong mối liên hệ toàn diện tổng hợp.

Ý nghĩa của tài liệu không chỉ chứa đựng và thể hiện ở ý nghĩa nội dung thông tin trong tài liệu mà còn thể hiện ở hình thức, thể thức và vật liệu, kỹ thuật chế tác tài liệu. Trong thực tế, có những tài liệu nội dung thông tin không có ý nghĩa quan trọng song chúng lại là những căn cứ để chỉ rõ độ chân thực hoặc làm sáng tỏ của một tài liệu có giá trị khác.

Mặt khác, trong một khối tài liệu có nội dung về một vấn đề, một sự vật, một hiện tượng, các hồ sơ thường có mối quan hệ logíc với nhau, phản ánh quá trình hoạt động của một cơ quan, phản ánh quá trình giải quyết một công việc cụ thể. Vì vậy, việc xác định giá trị tài liệu phải được xem xét, đánh giá một cách đồng bộ để thể hiện cái nhìn toàn diện, tổng hợp. Tuyệt đối không đánh giá giá trị tài liệu của từng văn bản trong hồ sơ, từng hồ sơ trong một khối tài liệu có quan hệ logic về một vấn đề, một sự vật, hiện tượng.

III. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU

Theo nghĩa thông thường, phương pháp là cách thức tiến hành công việc để đạt hiệu quả cao. Để xác định giá trị tài liệu được chính xác cần tuân theo bốn phương pháp sau đây:

1. Phương pháp phân tích chức năng

Mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều được xác định chức năng, nhiệm vụ cụ thể và trong quá trình hoạt động phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó. Do vậy, tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức luôn luôn có nội dung phản ánh chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức. Vì vậy, khi xác định giá trị tài liệu, cán bộ lưu trữ cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đẻ lựa chọn tài liệu.

Trong thực tế một số cơ quan có hai hay nhiều chức năng khác nhau. Việc thực hiện những chức năng ấy thể hiện ở các nhiệm vụ cụ thể. Cán bộ lưu trữ cần phần biệt và nắm vững những chức năng, nhiệm vụ chủ yếu và thứ yếu để lựa chọn và xác định giá trị tài liệu một cách chính xác.

Ví dụ: Chức năng chủ yếu của các Viện nghiên cứu là nghiên cứu khoa học, chức năng thứ yếu là chức năng đào tạo, chức năng hợp tác quốc tế vè khoa học công nghệ. Như vậy trong quá trình hoạt động các Viện nghiên cứu sẽ hình thành nên khối tài liệu chính là các công trình nghiên cứu khoa học, ngoài ra còn hình thành nên khối tài liệu về đào tạo cán bộ, tài liệu về hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ. Cán bộ lưu trữ cần có những xem xét, đánh giá, lựa chọn và định thời hạn bảo quản khác nhau đối với từng nhóm tài liệu trên.

2. Phương pháp hệ thống

Mỗi một ngành, một lĩnh vực đều được tổ chức, hoạt động và chịu sự quản lý của một hệ thống nhất định. Trong quá trình hoạt động, các cơ quan trong cùng một hệ thống thường sản sinh ra những loại tài liệu giống nhau hoặc tương tự như nhau. Khi xác định giá trị tài liệu cần chú ý đến tính thống nhất của tài liệu trong một hệ thống các cơ quan, các ngành, các địa phương có liên quan nhằm đảm bảo đánh giá chính xác giá trị của tài liệu. Đồng thời cần chú ý đến khả năng phân chia thứ bậc giữa các cơ quan trong cùng hệ thống và áp dụng phương pháp phân tích chức năng để xác định chính xác giá trị tài liệu.

Áp dụng phương pháp hệ thống sẽ giúp ta loại bớt được những tài liệu trùng thừa trong các cơ quan có cùng hệ thống, tối ưu hoá thành phần phông lưu trữ quốc gia Việt Nam.

3. Phương pháp thông tin

Giá trị của tài liệu được đánh giá bằng giá trị thông tin chứa đựng trong tài liệu đó. Thông tin trong tài liệu phản ánh xác thực sự vật, hiện tượng trong thực tế sẽ đảm bảo tính chân thực của tài liệu. Nói cách khác độ chân thực của tài liệu thể hiện ở mức độ chân thực của thông tin phản ánh sự vật, hiện tượng trong tài liệu đó.

Khi xác định giá trị tài liệu cần chú ý đến những tài liệu có thông tin đầy đủ, chân thực đối với các sự vật, hiện tượng mà nội dung tài liệu đề cập. Những tài liệu có thông tin trùng lặp cần phải được xem xét kỹ lưỡng và lựa chọn một cách cần thận sao cho khối tài liệu giữ lại ít nhất mà chứa đựng lượng thông tin đầy đủ và chính xác nhất.

Độ chân thực của thông tin chứa đựng trong tài liệu và độ chân thực của tài liệu được kiểm chứng bằng việc đối chiếu những thông tin trong tài liệu với thực tế sự vật, hiện tượng hoặc có thể dựa vào những tài liệu có liên quan khác.

4. Phương pháp sử liệu học

Sử liệu học là môn khoa học nghiên cứu về sử liệu. Tài liệu lưu trữ là nguồn sử liệu đáng tin cậy để nghiên cứu lịch sử. Vì vậy, lưu trữ học và sử liệu học có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Phương pháp sử liệu có nghĩa là áp dụng các phương pháp của sử liệu học để đánh giá giá trị của tài liệu. Sử liệu học coi tài liệu lưu trữ như một nguồn sử liệu và cần xác định xem tài liệu đó là chân thực hay giả mạo.

Tài liệu lưu trữ càng có tính chân thực cao, càng phản ánh chính xác thực tế sự vật, hiện tượng càng được đánh giá giá trị tài liệu ở mức độ cao và định thời hạn bảo quản càng cao.

Để xác định độ chân thực của tài liệu, sử liệu học dựa vào việc phân tích chính bản thân sử liệu đó như: Vật liệu chế tác tài liệu, văn phong ngôn ngữ tài liệu, tác giả tài liệu, người ký…

Dựa vào chất liệu làm ra tài liệu người ta có thể xác định xem tài liệu đó có được sản sinh ra vào thời điểm lịch sử đó không; dựa vào ngôn ngữ văn phong có thể xác định được tác giả tài liệu; dựa vào cơ quan sản sinh tài liệu hay người ký [đối với tài liệu quản lý nhà nước] cũng có thể xác định thời gian cụ thể của tài liệu trong phạm vi hẹp…Từ đó chúng ta sẽ xác định được mức độ chính, gốc của tài liệu lưu trữ.

Đây là một phương pháp rất xác thực và hiệu quả trong việc xác định những tài liệu cũ của đất nước ta. Do điều kiện chiến tranh liên miên, một số tài liệu còn khuyết những yếu tố về thể thức cần được làm sáng tỏ để đánh giá chính xác giá trị của tài liệu.

Trong một số trường hợp nội dung thông tin trong tài liệu có những yếu tố không đúng với thực tế sự vật, hiện tượng mà tài liệu bị khuyết tác giả nếu áp dụng phương pháp sử liệu học sẽ giúp chúng ta tìm ra những yếu tố còn thiếu và truy cứu trách nhiệm kịp thời.

Tuy nhiên, áp dụng phương pháp này phải đảm bảo yêu cầu thận trọng để tránh những trường hợp cố tình giả mạo tài liệu hoặc những việc làm sai trái bằng việc xoá các chứng cứ là tài liệu lưu trữ.

Mỗi phương pháp có vai trò, vị trí nhất định và phù hợp với từng phông, từng loại hình tài liệu cụ thể, Vì vậy, để xác định chính xác giá trị của tài liệu cần vận dụng linh hoạt những phương pháp đó.

IV. CÁC TIÊU CHUẨN XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU

Theo nghĩa thông thường, tiêu chuẩn là những tiêu chí được quy định dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá các sự vật, hiện tượng. Để đánh giá giá trị tài liệu một cách chính xác cần vận dụng một số tiêu chuẩn sau:

1. Tiêu chuẩn ý nghĩa nội dung tài liệu

Nội dung tài liệu là toàn bộ thông tin về những vấn đề, sự việc hay con người được đề cập trong tài liệu. Mỗi tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức đều biểu thị một nội dung nhất định để phục vụ mục đích của cơ quan, tổ chức, cá nhân làm ra tài liệu. Nói cách khác, mục đích ban hành văn bản của các cơ quan, tổ chức bao giờ cũng được thể hiện trong nội dung văn bản. Nội dung chính là linh hồn của tài liệu và giá trị của tài liệu chủ yếu được quy định bởi nội dung tài liệu.

Vận dụng tiêu chuẩn này khi xác định giá trị tài liệu trong một phông lưu trữ cần đánh giá cao những tài liệu có nội dung phản ánh trực tiếp chức năng, nhiệm vụ và các mặt hoạt động chính của đơn vị hình thành phông. Đồng thời cũng đánh giá cao những tài liệu có nội dung tổng kết quá trình hoạt động của đơn vị hình thành phông qua từng thời kỳ lịch sử.

Khi xác định giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam cần chú ý đến những tài liệu có nội dung phản ánh trực tiếp các mặt hoạt động của một quốc gia trong suốt quá trình lịch sử, cụ thể là:

- Tài liệu có nội dung phản ánh lịch sử hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Tài liệu có nội dung phản ánh lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

- Tài liệu có nội dung phản ánh lịch sử xây dựng và phát triển các ngành.

- Tài liệu về xây dựng và phát triển của các địa phương.

Trong một phông lưu trữ cơ quan cụ thể, có những tài liệu phản ánh các mặt hoạt động chủ yếu và có những tài liệu phản ánh các mặt hoạt động không chủ yếu. Đối với những tài liệu nội dung không liên quan đến chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan, đơn vị hình thành phông thì không được xem là tài liệu có ý nghĩa lịch sử của phông và không cần định thời hạn bảo quản lâu dài cho những tài liệu này ở trong phông.

Vận dụng tiêu chuẩn này trong công tác xác định giá trị tài liệu, chúng ta cần chú ý một số điểm sau:

Mỗi một hồ sơ, tài liệu thường có mối quan hệ lôgic với những hồ sơ tài liệu khác. Vì vậy, nội dung của tài liệu chỉ được nhìn nhận một cách hoàn chỉnh khi đặt tài liệu đó trong mối quan hệ tổng thể đối với những tài liệu có liên quan. Vì vậy, khi xác định giá trị tài liệu cần đặt tài liệu đó trong mối quan hệ chung với các tài liệu khác trong phông, không nên xem xét tách rời từng hồ sơ, tài liệu.

Trong thực tế một số tài liệu mặc dù nội dung không quan trọng song tài liệu đó lại có thể được sử dụng để xác minh độ chân thực của các tài liệu quan trọng khác bằng một số yếu tố như: tác giả, thời gian, địa danh… trường hợp này tài liệu cũng được lưu trữ lâu dài.

Như vậy, ý nghĩa nội dung của tài liệu không chỉ xem xét trên ý nghĩa nội dung chứa đựng trong tài liệu mà còn phụ thuộc vào việc nội dung tài liệu đó liên quan đến việc làm sáng tỏ độ chân thực của một tài liệu có nội dung quan trọng khác. Vận dụng tiêu chuẩn này khi xác định giá trị tài liệu yêu cầu người cán bộ cần nắm hiểu rõ nội dung của từng tài liệu đồng thời nắm được mối quan hệ của tài liệu đó với những tài liệu khác có liên quan.

2. Tiêu chuẩn tác giả tài liệu

Tác giả tài liệu là cơ quan, tổ chức hay cá nhân sản sinh ra tài liệu. Tác giả của tài liệu thường được ghi dấu ngay trên hình thức của tài liệu.

Trong một phông lưu trữ, tài liệu được hình thành từ các nguồn khác nhau, gồm: tài liệu của cấp trên gửi xuống; cấp dưới gửi lên; các cơ quan ngang cấp; cơ quan, tổ chức ngoài hệ thống và các cá nhân… gửi đến và tài liệu do chính cơ quan, đơn vị hình thành phông sản sinh ra. Nói cách khác, tài liệu của một phông lưu trữ do nhiều tác giả sản sinh ra. Vận dụng tiêu chuẩn này khi lựa chọn những tài liệu cần nộp lưu vào các lưu trữ chúng ta cần xem xét đến tác giả của tài liệu.

Đối với phông lưu trữ cơ quan, tài liệu có ý nghĩa và được đánh giá cao là những tài liệu của chính cơ quan đó sản sinh ra để thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan đó. Những tài liệu do các nguồn khác gửi đến không phải tài liệu nào cũng có giá trị như nhau mà chúng được đánh giá khác nhau một phần dựa vào mối quan hệ giữa tác giả tài liệu với đơn vị hình thành phông. Thông thường tài liệu của các cơ quan cấp trên gửi xuống để chỉ đạo hoạt động của cơ quan thường là những tài liệu có nội dung liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nên những tài liệu này được đánh giá cao hơn những tài liệu cũng do cấp trên gửi xuống nhưng không có nội dung liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ chính của cơ quan hình thành phông.

Đối với tài liệu do cấp dưới và các đơn vị trực thuộc gửi lên có nhiều nội dung khác nhau song cần đánh giá cao những tài liệu có nội dung báo cáo công tác phản ánh hoặc tổng kết những nhiệm vụ do cơ quan hình thành phông giao. Những báo cáo này cũng liên quan đến việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị hình thành phông ở cấp độ, phạm vi cụ thể.

Đối với tài liệu của các nguồn khác gửi đến song liên quan đến việc giải quyết các công việc cụ thể và nằm trong hồ sơ công việc do cơ quan có tránh nhiệm giải quyết thì tài liệu được đánh giá giá trị ở cấp độ hồ sơ công việc, không đánh giá tách rời riêng lẻ ở cấp độ từng tài liệu.

Đối với tài liệu lưu trữ cá nhân, việc xác định giá trị tài liệu được xác định dựa vào vai trò, vị trí và những đóng góp của cá nhân đó đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc hay một ngành, một lĩnh vực nhất định. Những cá nhân lịch sử, tiêu biểu thì tài liệu đều được bảo quản lâu dài, vĩnh viễn trong các trung tâm lưu trữ quốc gia.

3. Tiêu chuẩn ý nghĩa cơ quan, đơn vị hình thành phông

Cơ quan, đơn vị hình thành phông là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân mà trong quá trình hoạt động của nó phông tài liệu được hình thành. Trong thực tế, chúng ta cần phân biệt cơ quan, đơn vị hình thành phông với tác giả tài liệu. Tác giả tài liệu là cơ quan làm ra tài liệu còn đơn vị hình thành phông là nơi bảo quản tài liệu ở giai đoạn hịên hành. Đối với một phông lưu trữ chỉ có một đơn vị hình thành còn tài liệu trong phông có nhiều tác giả khác nhau. Tuy nhiên, tác giả tài liệu có thể là cơ quan, đơn vị hình thành phông cũng có thể không phải là cơ quan, đơn vị hình thành phông.

Tiêu chuẩn ý nghĩa cơ quan, đơn vị hình thành phông được xây dựng trên cơ sở dựa vào phương pháp phân tích chức năng. Vị trí, tầm quan trọng của các cơ quan, đơn vị hình thành phông trong bộ máy nhà nước và xã hội có vai trò quan trọng trong việc xác định giá trị tài liệu của phông lưu trữ do cơ quan, đơn vị đó hình thành nên. Vận dụng tiêu chuẩn này khi xác định giá trị tài liệu phông lưu trữ quốc gia Việt Nam chúng ta cần đánh giá cao những phông tài liệu mà cơ quan, đơn vị hình thành phông có vị trí quan trọng hàng đầu trong bộ máy lãnh đạo Đảng và bộ máy quản lý nhà nước. Tài liệu của những cơ quan đó sản sinh ra luôn là nguồn bổ sung quan trọng của phông lưu trữ quốc gia Việt Nam.

Đối với những phông tài liệu mà cơ quan, đơn vị hình thành phông không có vai trò, vị trí quan trọng, khi xác định giá trị tài liệu chúng ta cần chú ý đến việc lựa chọn những tài liệu chủ yến liên quan đến việc nghiên cứu lịch sử của cơ quan đơn vị hình thành phông.

Từ tiêu chuẩn ý nghĩa cơ quan, đơn vị hình thành phông chúng ta có thể lập danh mục những cơ quan thuộc nguồn nộp lưu vào lưu trữ quốc gia. Danh mục này là một loại công cụ trong thu thập, bổ sung và xác định giá trị tài liệu.

4. Tiêu chuẩn sự trùng lặp thông tin trong tài liệu

Trong quá trình hoạt động của một cơ quan, tổ chức sẽ xuất hiện những tài liệu có thông tin trùng lặp. Điều đó đòi hỏi việc xác định giá trị tài liệu cần có sự lựa chọn thận trọng và khoa học.

Sự trùng lặp thông tin trong phông lưu trữ cơ quan là do việc sao in văn bản, trích sao văn bản hoặc do sự tổng hợp thông tin trong nhiều tài liệu. Ví dụ: Báo cáo tổng kết năm của một cơ quan, tổ chức sẽ có những thông trùng lặp với các báo cáo tổng kết các tháng, quý của cơ quan và các đơn vị trực thuộc trong năm đó.

Áp dụng tiêu chuẩn này trong trường hợp gặp những văn bản có thông tin trùng lặp do sao in văn bản thì cần lựa chọn và đánh giá cao những văn bản là bản chính, bản gốc, bản có bút tích của lãnh đạo cơ quan và người có trách nhiệm thực hiện văn bản. Trường hợp tài liệu có giá trị quan trọng phục vụ khai thác sử dụng tài liệu thường xuyên thì ngoài bản gốc, bản chính nên giữ thêm bản sao để phục vụ khai thác, nhằm bảo quản an toàn được bản chính, bản gốc.

Trong trường hợp gặp những văn bản có thông tin lặp lại do quá trình tổng hợp, sử dụng văn bản này để làm ra những văn bản khác thì những văn bản có thông tin tổng hợp thường được đánh giá cao hơn những văn bản có thông tin bị tổng hợp. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến những tài liệu có thông tin bị tổng hợp mang tính tiêu biểu, phản ánh hoạt động chuyên môn quan trọng hoặc phản ánh hoạt động của cơ quan trong một khoảng thời gian đặc biệt như: chào mừng những ngày lễ lớn của cơ quan hoặc kết quả hoạt động trong thời gian đó đạt được những thành tích tiêu biểu… Trường trường hợp tài liệu tổng hợp không phản ánh hết những sắc thái, tính chất riêng biệt của các tài liệu bị bao hàm thì cần xem xét từng tài liệu để định thời hạn bảo quản hợp lý.

Trong phạm vi phông lưu trữ quốc gia, sự trùng lặp thông tin có thể xảy ra giữa tài liệu của các phông trong cùng một ngành, một hệ thống các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Áp dụng tiêu chuẩn này, trong xác định giá trị tài liệu phông lưu trữ quốc gia người ta vận dụng kết hợp với tiêu chuẩn ý nghĩa cơ quan, đơn vị hình thành phông và dựa vào mức độ khai thác, sử dụng tài liệu của các phông lưu trữ. Trường hợp các phông trong cùng ngành hoặc đơn vị hình thành phông có chức năng, nhiệm vụ tương đồng thì người ta sẽ đánh giá cao giá trị tài liệu của phông có nhu cầu khai thác, sử dụng cao hơn.

Áp dụng tiêu chuẩn này, người làm công tác xác định giá trị tài liệu cần nắm được các loại tài liệu có thông tin trùng lặp, đồng thời không nên áp dụng quá máy móc mà cần vận dụng một cách linh hoạt kết hợp với các tiêu chuẩn khác.

5. Tiêu chuẩn thời gian và địa điểm hình thành tài liệu

Thời gian và địa điểm của tài liệu là hai yếu tố quan trọng được sử dụng  làm căn cứ xác minh độ chân thực của tài liệu.

5.1 Về thời gian tài liệu

Thời gian của tài liệu bao gồm thời gian sản sinh ra tài liệu và thời gian của sự vật, hiện tượng được đề cập đến trong nội dung tài liệu. Trong nhiều trường hợp, thời gian sản sinh ra tài liệu trùng với thời gian được nhắc tới trong nội dung tài liệu như: các văn bản quản lý nhà nước, văn bản ban hành để giải quyết các công việc cụ thể, cấp bách hoặc những công việc không cần hạn định thời gian… Cũng  có những tài liệu hai khoảng thời gian này tương đối cách xa nhau như: các tập hồi ký, các bản tường trình về một sự vật, hiện tượng đã xảy ra, biên bản ghi ghi chép về hiện trường, nơi xảy ra vụ việc…

Trong xác định giá trị tài liệu người ta cho rằng những tài liệu càng có thời gian gần với công việc, sự kiện xảy ra trong thực tế thì càng mang tính xác thực hơn và được đánh giá cao hơn.

Vận dụng tiêu chuẩn này trong xác định giá trị tài liệu Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam, chúng ta cần chú ý đến những tài liệu được sản sinh ra trong những thời kỳ đặc biệt, những giai đoạn lịch sử của Đảng và của dân tộc, của cơ quan trung ương và địa phương là đơn vị hình thành phông. Đó là các mốc thời gian: những năm 30 vận động thành lập Đảng và Phong trào Xô viết Nghệ tĩnh; Cách mạng tháng Tám năm 1945; các giai đoạn điển hình trong kháng chiến chống pháp [1945-1954] và kháng chiến chống Mỹ [1954 - 1975]; thời kỳ đổi mới 1986… Trong phạm vi phông lưu trữ cơ quan, cá nhân, cần đánh giá cao những tài liệu phản ánh các mốc phát triển của cơ quan, đơn vị hình thành phông; những thời kỳ biến đổi về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức hoặc những nhiệm vụ được giao đột xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cơ quan [nếu có].

Có thể kết luận rằng, theo tiêu chuẩn này những tài liệu càng có thời gian sản sinh gần với thời gian của sự vật, hiện tượng được nhắc tới trong tài liệu càng có giá trị chân thực và càng được xem xét đánh giá cao.

5.2 Về địa điểm tài liệu

Địa điểm tài liệu cũng là yếu tố quan trọng liên quan đến xác định giá trị tài liệu. Địa điểm tài liệu cũng có thể là địa danh lập ra tài liệu hoặc địa danh được nhắc tới trong nội dung tài liệu. Trong trường hợp địa danh là nơi lập ra tài liệu trùng với địa danh được nhắc tới trong nội dung tài liệu thì tài liệu đó sẽ được đánh giá cao hơn đối với những tài liệu khác.

Khi xác định giá trị tài liệu phông lưu trữ quốc gia Việt Nam cần chú ý đến những tài liệu được sản sinh tại những địa danh có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Đối với những tài liệu có giá trị lịch sử cần đánh giá cao đối với các tài liệu sản sinh tại các địa danh trực tiếp xảy ra các cuộc kháng chiến của dân tộc, mặc dù những tài liệu này còn có một số thiếu sót về vấn đề thể thức. Đối với tài liệu thời kỳ hiện đại cần đánh giá cao những tài liệu có địa điểm sản sinh hoặc phản ánh những sự kiện xảy ra tại thủ đô và những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của đất nước như tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đối với lưu trữ tỉnh, cần đánh giá cao những tài liệu sản sinh hoặc phản ánh những sự kiện xảy ra tại trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh và những khu phát triển kinh tế, văn hóa trọng điểm của tỉnh.

Như vậy, vận dụng tiêu chuẩn này đòi hỏi cán bộ làm công tác xác định giá trị tài liệu phông lưu trữ quôc gia cần nắm vững những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc và biết quan tâm đến lợi ích lâu dài của đất nước để không làm mất mát những tài liệu có giá trị.

6. Tiêu chuẩn mức độ hoàn chỉnh và chất lượng của phông lưu trữ

Phông lưu trữ là khối tài liệu hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh phản ánh quá trình hoạt động của một quốc gia, một cơ quan hoặc một cá nhân. Như vậy, đã là một phông lưu trữ thì khối tài liệu đó phải phản ánh đầy đủ hoặc tương đối đầy đủ quá trình hình thành và phát triển của cơ quan, đơn vị hình thành phông.

Theo tiêu chuẩn này, trong quá trình xác định giá trị tài liệu nếu gặp những phông mà tài liệu của chúng vì nhiều lý do bị mất mát, thất lạc nhiều, khối tài liệu có giá trị còn ít thì chúng ta cũng cần giữ thêm những tài liệu ít giá trị để bảo quản trong phông. Những tài liệu đó sẽ góp phần bổ sung và giúp cho việc nghiên cứu thêm về những hoạt động của cơ quan, đơn vị hình thành phông. Đối với nước ta thì việc vận dụng tiêu chuẩn này rất có ý nghĩa bởi lẽ, trong thực tế do chiến tranh, thiên tai, điều kiện khí hậu và ý thức gìn giữ tài liệu của cán bộ, nhân dân ở một số nơi chưa tốt nên các phông tài liệu cũ còn giữ được rất ít tài liệu có giá trị. Trong điều kiện cho phép, có thể sưu tầm những tài liệu có liên quan để bổ sung hoàn chỉnh phông lưu trữ bằng việc sao in tài liệu tại các phông của đơn vị chủ quản cấp trên hoặc phông lưu trữ của cấp dưới.

Theo tiêu chuẩn này, trong trường hợp tài liệu còn lại của phông có rất ít những tài liệu có ý nghĩa chủ yếu thì khi xác định giá trị tài liệu chúng ta cũng cần giữ lại những tài liệu có ý nghĩa thứ yếu cho đến khi tìm được những tài liệu có ý nghĩa chủ yếu bổ sung vào phông lưu trữ.

7. Tiêu chuẩn hiệu lực pháp lý của tài liệu

Hiệu lực pháp lý của tài liệu được thể hiện trên hai mặt thể thức văn bản và nội dung văn bản. Về thể thức văn bản, một văn bản có hiệu lực pháp lý khi nó đảm bảo đủ các yếu tố về thể thức do cơ quan nhà nước quy định cần phải có trong một văn bản như: quốc hiệu, tác giả văn bản, địa danh và thời gian ban hành văn bản, tên loại và nội dung văn bản, nơi nhận, chữ ký của người có thẩm quyền, dấu của cơ quan ban hành văn bản.

Về nguyên tắc, khi xác định giá trị và lựa chọn tài liệu để đưa vào bảo quản trong lưu trữ cần lựa chọn những tài liệu có hiệu lực pháp lý, tức tài liệu phải có đủ các yếu tố thuộc thể thức văn bản. Tuy nhiên, trong thực tế khi áp dụng tiêu chuẩn này cần được xem xét vận dụng trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Bởi lẽ có những tài liệu thông tin có giá trị cao, song do điều kiện khách quan nên không đảm bảo các yếu tố về thể thức văn bản. Ví dụ: Những tài liệu sản sinh trong thời kỳ kháng chiến, trong thời kỳ hoạt động bí mật của Đảng. Vì vậy, trong quá trình xác định giá trị tài liệu, áp dụng tiêu chuẩn này chúng ta cần xem xét và nâng thời hạn bảo quản của những tài liệu có đặc điểm như trên.

Về nội dung tài liệu: văn bản có giá trị pháp lý là văn bản khi ban hành phải đảm bảo tính hợp pháp và tính hợp lý của văn bản. Tính hợp pháp thể hiện ở chỗ, ngoài việc đảm bảo đủ đúng các yêu cầu về thể thức thì nội dung phải đúng pháp luật, không trái với những văn bản do các cơ quan cấp trên ban hành.

Tuy nhiên, vận dụng tiêu chuẩn này, yếu tố quan trọng chúng ta cần xem xét là thời gian hiệu lực pháp lý của một tài liệu. Thời gian hiệu lực pháp lý của một tài liệu được tính bằng khoảng thời gian tài liệu có giá trị thực thi. Có những tài liệu thời gian hiệu lực pháp lý được quy định ngay trong nội dung văn bản như: hợp đồng, hiệp ước, bản ghi nhớ… Có những văn bản thời gian hiệu lực pháp không thể hiện trong nội dung văn bản mà thể hiện ở thời gian thực tế thực hiện văn bản và nó chỉ hết hiệu lực khi có một văn bản khác được ban hành thay thế nó.

Vận dụng tiêu chuẩn này khi định thời hạn bảo quản tài liệu cần chú ý đến thời gian có hiệu lực của tài liệu. Thời hạn bảo quản tài liệu phải lớn hơn hoặc bằng thời gian có hiệu lực pháp lý của tài liệu. Sau khoảng thời gian có hiệu hiệu lực pháp lý, tài liệu có được giữ lại nữa hay không phụ thuộc vào ý nghĩa lịch sử của tài liệu và được xác định giá trị bằng việc vận dụng những tiêu chuẩn khác.

Ví dụ: Một hợp đồng thuê đất được ký kết giữa hai cơ quan có thời gian thực hiện trong 20 năm thì thời hạn bảo quản của nó cũng ít nhất là 21 năm ở văn thư cơ quan, sau đó Hợp đồng này được chuyển vào lưu trữ cơ quan và việc định thời hạn bảo quản trong thời gian tiếp theo phụ thuộc vào giá trị lịch sử của nó.

Đối với người thư ký văn phòng việc nắm hiểu được những điều kiện quy định về hiệu lực pháp lý của các văn bản là điều rất cần thiết. Một văn bản, tài liệu có giá trị làm cơ sở để lãnh đạo ra được những quyết sách đúng đắn phải là những thông tin từ những tài liệu đáng tin cậy, có giá trị pháp lý cao. Chỉ có những văn bản đảm bảo về giá trị pháp lý mới có thể là những chứng cứ quan trọng để làm minh chứng cho việc xác minh, sáng tỏ những sự việc cần thiết. Trong việc sắp xếp khoa học tài liệu của lãnh đạo cần giữ gìn những tài liệu đảm bảo về giá trị pháp lý.

8. Tiêu chuẩn tình trạng vật lý của tài liệu

Tình trạng vật lý của tài liệu là tình trạng tài liệu được xem xét bới các yếu tố vật lý, hóa học, có ảnh hưởng đến hình thức của tài liệu. Tình trạng vật lý của tài liệu sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác khai thác và sử dụng tài liệu sau này.

Trong thực tế rất nhiều tài liệu trong phông lưu trữ quốc gia do điều kiện tác động của các yếu tố tự nhiên đã bị hư hỏng. Khi phát hiện những tài liệu quý hiếm bị hư hỏng chúng ta cần có những biện pháp tu bổ, phục chế để cấp cứu chúng. Song không phải tài liệu nào cũng tu bổ và phục chế được. Vì vậy, áp dụng tiêu chuẩn này có nghĩa là đối với những tài liệu mặc dù rất quý hiếm song tình trạng vật lý quá kém, không thể phục chế được thì chúng ta cũng cần loại bỏ. Bởi lẽ dù có giữ những tài liệu này trong phông người ta cũng không thể khai thác, sử dụng được mà nó sẽ có nguy cơ làm hư hỏng những tài liệu khác. Tài liệu lưu trữ chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nó được khai thác, sử dụng để phục vụ những nhu cầu xã hội.  

Hiện nay, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đang thực hiện một số đề án để khắc phục sự hư hại về tình trạng vật lý của tài liệu như: Đề án chống nguy cơ huỷ hoại tài liệu; Đề án cấp cứu tài liệu Châu bản triều Nguyễn…

Trong trường hợp các tài liệu có giá trị thông tin như nhau, thì người ta cho phép lựa chọn những tài liệu có tình trạng vật lý tốt hơn.                                                    

9. Tiêu chuẩn ngôn ngữ, kỹ thuật chế tác tài liệu

Giá trị tài liệu trong nhiều trường hợp không những thể hiện ở nội dung tài liệu mà còn thể hiện ở các yếu tố như ngôn ngữ, kỹ thuật, vật liệu chế tác tài liệu. Dựa vào ngôn ngữ hay vật liệu chế tác của tài liệu chúng ta có thể nghiên cứu về sử liệu học, văn bản học và nhận biết được thời kỳ lịch sử sản sinh tài liệu.

Trong phông lưu trữ quốc gia Việt Nam, một số tài liệu hình thành trong lịch sử có thể được thể hiện bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Những tài liệu bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp hiện còn lại rất ít nên khi xác định giá trị tài liệu chúng ta cần đánh giá cao những tài liệu đó và cần bảo quản vĩnh viễn trong lưu trữ quốc gia.

Ở Việt Nam, trong thời kỳ Phong kiến, một số tài liệu được làm trên những chất liệu đặc biệt như tài liệu Mộc bản khắc trên gỗ thị. Đối với những tài liệu này, giá trị của chúng được đánh giá cao và thời hạn bảo quản thường là vĩnh viễn.

Có những tài liệu tuy nội dung rất đơn giản nhưng thể hiện đặc trưng của thời kỳ lịch sử sản sinh ra nó thì tài liệu đó vẫn cần được đánh giá cao và bảo quản lâu dài, vĩnh viễn.

Trên đây là những tiêu chuẩn cần thiết để vận dụng khi xác định giá trị tài liệu phông lưu trữ quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi tiêu chuẩn có vai trò, vị trí độc lập có thể cho thấy giá trị của tài liệu trên từng phương diện cụ thể song chúng lại có mối quan hệ logic với nhau và người xác định giá trị tài liệu cần biết vận dụng một cách linh hoạt các tiêu chuẩn đó đối với từng tài liệu cụ thể.

Đối với cán bộ lưu trữ, việc nắm được các tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu sẽ giúp cho việc tham mưu, tư vấn với lãnh đạo về việc xây dựng danh mục hồ sơ, bảng thời hạn bảo quản tài liệu của cơ quan, đồng thời giúp lãnh đạo sắp xếp khoa học tài liệu, xác định giá trị và lựa chọn chính xác tài liệu cá nhân lãnh đạo và quan trọng hơn là biết tổng hợp những thông tin xác thực từ những tài liệu có giá trị chân thực để cung cấp cho lãnh đạo trong công tác quản lý.

V. CÁC CÔNG CỤ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU

1. Khái niệm

Công cụ xác định giá trị tài liệu là những phương tiện làm cơ sở cho công tác xác định giá trị được thực hiện một cách thuận lợi và hiệu quả. Công cụ xác định giá trị tài liệu do chính các cơ quan lưu trữ ban hành hoặc do cán bộ lưu trữ xây dựng để áp dụng trong cơ quan.

Công cụ xác định giá trị tài liệu bao gồm nhiều loại khác nhau.

2. Một số loại công cụ xác định giá trị tài liệu

2.1 Danh mục hồ sơ tài liệu mẫu và tiêu biểu có thời hạn bảo quản  Danh mục hồ sơ là bảng kê các hồ sơ dự kiến lập trong năm của một cơ quan và thời hạn bảo quản của các hồ sơ đó. Danh mục hồ sơ được lập dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và thực tế tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan. Danh mục hồ sơ là công cụ để xác định giá trị tài liệu tại văn thư cơ quan. Danh mục hồ sơ là căn cứ để lựa chọn và bảo quản tài liệu tại văn thư cơ quan.

2.2 Bảng thời hạn bảo quản

Bảng thời hạn bảo quản tài liệu là bản danh mục các loại tài liệu có ghi thời hạn bảo quản và được sắp xếp theo một thứ tự nhất định. Trong đó thời hạn bảo quản tài liệu là khoảng thời gian cần lưu trữ tài liệu kể từ khi tài liệu kết thúc công việc ở giai đoạn văn thư và chuyển giao vào lưu trữ.

Bảng thời hạn bảo quản tài liệu chủ yếu được sử dụng tại lưu trữ hiện hành để xác định số năm lưu trữ tài liệu tại cơ quan trước khi chuyển giao tài liệu vào lưu trữ lịch sử.

Bảng thời hạn bảo quản tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ làm công tác lưu trữ tại các cơ quan hiện nay. Bởi lẽ để định được thời hạn bảo quản cho từng loại tài liệu là một công việc tương đối khó khăn và phức tạp. Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu quản lý nhà nước sẽ giúp cho công tác xác định giá trị tài liệu được thực hiện thống nhất, chính xác trong các cơ quan nhà nước tránh loại huỷ tài liệu một cách tuỳ tiện.

Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc xác định giá trị tài liệu của từng loại tài liệu cụ thể, người ta thường lập nhiều bảng thời hạn bảo quản khác nhau. Mỗi loại bảng thời hạn bảo quản được áp dụng phù hợp với từng loại hình tài liệu khác nhau. Có loại dùng để xác định giá trị tài liệu hành chính, có loại dùng để xác định giá trị tài liệu của những tài liệu chuyên ngành riêng biệt, tài liệu khoa học kỹ thuật… Thông thường có các loại bảng thời hạn bảo quản sau:

+ Bảng thời hạn bảo quản mẫu: Là bảng thời hạn bảo quản những nhóm tài liệu chung hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong đó cấp độ được định thời hạn bảo quản chỉ dừng lại ở các nhóm tài liệu, không định thời hạn bảo quản cho từng hồ sơ.

+ Bảng thời hạn bảo quản tài liệu tiêu biểu: Đây là loại bảng thời hạn bảo quản chung cho các nhóm tài liệu tiêu biểu hình thành trong quá trình hoạt động của một loại hình cơ quan nhất định. Hiện nay, Cục Văn Thư và Lưu trữ nhà nước đang nghiên cứu, ban hành bảng thời hạn bảo quản tài liệu tiêu biểu cho các cơ quan nhà nước.  

          Trên cơ sở bảng thời hạn bảo quản tiêu biểu, các lưu trữ hiện hành lấy đó làm căn cứ để lập bảng thời hạn bảo quản cho ngành hay cho cơ quan mình.

Bảng thời hạn bảo quản tài liệu mẫu mang tầm cỡ quốc gia và có ý nghĩa đối với tất cả các cơ quan thuộc bộ máy quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để xây dựng được bảng thời hạn bảo quản tiêu biểu của quốc gia cần có sự nghiên cứu, phân tích, lý giải một cách chi tiết, cụ thể về giá trị của các nhóm tài liệu tiêu biểu thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau của xã hội. Vì vậy, những người tham gia xây dựng bảng thời hạn bảo quản phải có kiến thức rộng, sâu, am hiểu về giá trị của tài liệu lưu trữ đối với các lĩnh vực hoạt động trong xã hội.

Khi xây dựng bảng thời hạn tiêu biểu của một loại hình cơ quan cần có sự phối kết hợp giữa cán bộ chuyên môn của ngành, của lĩnh vực đó và những chuyên gia xác định giá trị tài liệu của ngành lưu trữ.

+ Bảng thời hạn bảo quản tài liệu của các ngành và liên ngành: Mỗi một ngành trong quá trình hoạt động thường sản sinh ra khối tài liệu mang đặc trưng riêng của ngành đó. Việc xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho một ngành sẽ giúp cho công tác xác định giá trị tài liệu của các lưu trữ cơ quan được thực hiện thống nhất trong toàn ngành.

Bảng thời hạn bảo quản này thường do các Bộ, cơ quan ngang Bộ hoặc các ngành lập ra để làm căn cứ cho việc xác định giá trị tài liệu của ngành mình. Bảng thời hạn bảo quản này sẽ định thời hạn bảo quản cho toàn bộ tài liệu của một ngành hoặc một lĩnh vực hoạt động nhất định. Các cơ quan trong ngành sẽ căn cứ vào bảng thời hạn bảo quản này để lập bảng thời hạn riêng cho tài liệu của cơ quan mình.

Ví dụ: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã lập bảng thời hạn bảo quản hồ sơ tài liệu trong ngành ngân hàng và được ban hành theo Quyết định số 252/NH, ngày 28 tháng 12 năm 1993 của Thống đốc Ngân hàng Việt Nam, trong bảng thời hạn này bao gồm các loại tài liệu sau:

I. Tài liệu pháp quy của nhà nước, của ngành và ngoài ngành

II. Tín dụng

III. Phát hành – kho quỹ

IV. Kế toán – Tài vụ

V. Định chế - Tài chính

VI. Đối ngoại - quản lý ngoại hối

VIII. Quản lý – XDCB – Tài vụ cấp 3

IX. Tổ chức cán bộ - đào tạo

X. Thanh tra - Tổng kiểm soát

XI. Văn thư – lưu trữ

XII. Tin học

XIII. Quản lý quỹ ngân sách

Căn cứ vào bảng thời hạn bảo quản này các đơn vị thuộc ngành ngân hàng đối chiếu với từng loại hồ sơ tài liệu để giữ lại theo thời hạn quy định.

Khi xây dựng bảng thời hạn bảo quản của một ngành hoặc của liên ngành cũng cần có sự phối kết hợp giữa cán bộ chuyên môn của ngành đó và chuyên gia xác định giá trị tài liệu lưu trữ. Các bảng thời hạn bảo quản tài liệu của ngành, liên ngành muốn có hiệu lực phải do thủ trưởng cơ quan quản lý cao nhất của ngành ban bành.

2.3 Danh mục nguồn và thành phần tài liệu nộp lưu vào các lưu trữ quốc gia:  

Đây cũng là một công cụ có thể dùng làm căn cứ để lựa chọn những tài liệu có giá trị để bảo quản trong các lưu trữ quốc gia. Dựa vào danh mục này chúng ta có thể xác định được tài liệu của các cơ quan thuộc diện nộp lưu vào các lưu trữ quốc gia, đồng thời khi xác định giá trị tài liệu tại lưu trữ cơ quan chúng ta có thể dễ dàng lựa chọn những tài liệu thuộc thành phần phông lưu trữ cơ quan cần nộp lưu vào bảo quản tại các lưu trữ quốc gia. Những tài liệu đó cần được xác định thời hạn bảo quản lâu dài, vĩnh viễn.

2.4 Quy chế xác định giá trị tài liệu:

Quy chế xác định giá trị tài liệu là những quy định của nhà nước, của cơ quan về việc xác định giá trị tài liệu. Đây cũng là một trong những công cụ giúp cho quá trình lựa chọn tài liệu, định thời hạn bảo quản cho từng loại và tiêu huỷ tài liệu hết giá trị được thực hiện chính xác và đúng pháp luật, phù hợp với điều kiện cơ quan.

Khi xác định tài liệu trong các lưu trữ quốc gia phải tuân theo những quy định hiện hành của nhà nước về công tác xác định giá trị tài liệu.

          Ngoài những công cụ trên trong quá trình xác định giá trị tài liệu có thể tham khảo thêm các tài liệu khác như: Hướng dẫn xác định giá trị tài liệu; danh mục sự kiện lịch sử để xác định tài liệu quan trọng cần lựa chọn…

VI. TỔ CHỨC CÔNG TÁC XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TÀI LIỆU

1. Các giai đoạn xác định giá trị tài liệu

Xuất phát từ quy trình hình thành và chuyển giao tài liệu từ khi tài liệu được sinh ra đến khi nó trở thành tài liệu lưu trữ và được lưu trữ tại lưu trữ lịch sử, vòng đời của tài liệu đi theo các bước như sau:

Tài liệu hình thành ở giai đoạn văn thư cơ quan được chuyển giao vào lưu trữ hiện hành sau thời gian một năm kể từ khi công việc ở giai đoạn văn thư kết thúc, được chuyển giao vào lưu trữ lịch sử sau khi kết thúc thời gian bảo quản tại lưu trữ hiện hành.

Ở mỗi giai đoạn đó, tài liệu được đánh giá lại dựa vào những tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu. Vì vậy, căn cứ vào vòng đời của tài liệu, các nhà lưu trữ học định ra các giai đoạn xác định giá trị tài liệu như sau:

1.1 Xác định giá trị tài liệu tại giai đoạn văn thư cơ quan

Việc xác định giá trị tài liệu ở giai đoạn văn thư được đặt ra ngay từ khi lập danh mục hồ sơ dự kiến cần lập trong năm văn thư. Tại đây, việc xác định giá trị và định thời hạn bảo quản chỉ mang tính chất tương đối và sau khi lập và hoàn chỉnh hồ sơ, thời hạn bảo quản có thể còn thay đổi.

Thời hạn bảo quản ghi trong danh mục hồ sơ dự kiến lập trong năm có thể được thay đổi sau khi xem xét tài liệu thực tế của hồ sơ khi công việc kết thúc. Sau một năm tại văn thư cơ quan, tài liệu có được chuyển giao vào lưu trữ cơ quan hay không lại phải được xem xét và đánh giá kỹ lưỡng. Đây là bước đầu tiên của công tác xác định giá trị tài liệu.

Quá trình đánh giá giá trị tài liệu ở giai đoạn văn thư cơ quan thường được xem xét từng tài liệu trong quá trình lập hồ sơ. Điều đó đòi hỏi các hồ sơ tại văn thư cơ quan trước khi đưa vào lưu trữ cần được lập hoàn chỉnh. Cán bộ làm công tác lập hồ sơ hiện hành phải cẩn thận, chu đáo vì việc kiểm tra, tối ưu hóa thành phần tài liệu trong một hồ sơ sẽ quyết định số phận của từng tài liệu.

Việc xác định giá trị tài liệu tại giai đoạn văn thư cơ quan sẽ loại bớt được những tài liệu trùng thừa trong các hồ sơ tài liệu, đồng thời góp phần phát hiện và tìm kiếm những tài liệu thiếu, bổ sung nhằm hoàn chỉnh chất lượng của từng hồ sơ trước khi chuyển giao vào lưu trữ hiện hành. Vì vậy, việc xác định giá trị tài liệu tại giai đoạn văn thư cơ quan làm tốt sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho những giai đoạn tiếp theo.

1.2 Xác định giá trị tài liệu tại lưu trữ cơ quan [lưu trữ hiện hành]

Lưu trữ cơ quan là nơi thu thập tài liệu từ văn thư cơ quan và các đơn vị, phòng ban trực thuộc. Vì vậy, thành phần tài liệu thu thập vào lưu trữ cơ quan cũng tương đối phức tạp.

Nhiệm vụ của việc xác định giá trị tài liệu tại lưu trữ cơ quan là cán bộ lưu trữ cần kiểm tra lại toàn bộ những hồ sơ từ văn thư cơ quan và các phòng ban chức năng khi nộp vào lưu trữ cơ quan. Toàn bộ những hồ sơ tài liệu đó không phải đều có giá trị như nhau và đều phải nộp lưu vào lưu trữ. Sau khi kiểm tra toàn bộ hồ sơ tài liệu thu được, cần xem xét, đánh giá giá trị từng hồ sơ một lần nữa để lựa chọn những hồ sơ có giá trị thực tiễn và giá trị lịch sử.

Nếu như việc định thời hạn bảo quản tài liệu tại văn thư cơ quan được đánh giá ở cấp độ từng tài liệu cụ thể thì tại lưu trữ cơ quan việc định thời hạn bảo quản lại áp dụng cho từng hồ sơ tài liệu. Vì vậy, có thể tiến hành một cách độc lập hoặc kết hợp với công tác thống kê, phân loại và chỉnh lý tài liệu.

Tài liệu tại lưu trữ cơ quan chủ yếu được giữ lại để phục vụ việc tra tìm thường xuyên của cán bộ trong cơ quan hoặc trong ngành. Giá trị của tài liệu chủ yếu là giá trị hiện hành. Theo quy định của nhà nước, tại các lưu trữ hiện hành của các cơ quan trung ương, tài liệu hành chính được lưu trữ mười năm còn tại lưu trữ của các cơ quan địa phương là năm năm. Như vậy, công tác xác định giá trị tài liệu tại các lưu trữ hiện hành cần được thực hiện trong quá trình chỉnh lý khoa học tài liệu.

Xác định giá trị tại lưu trữ cơ quan sẽ loại bớt những hồ sơ, tài liệu trùng thừa ra khỏi phông lưu trữ cơ quan đồng thời loại bớt những tài liệu đã thực sự hết giá trị trong giai đoạn hiện hành, chọn lựa những hồ sơ tài liệu có giá trị đích thực chuyển giao vào lưu trữ lịch sử.

Công tác xác định giá trị tài liệu tại lưu trữ cơ quan làm tốt góp phần nâng cao chất lượng thành phần tài liệu trong phông lưu trữ cơ quan nói riêng và phông lưu trữ quốc gia nói chung. Đây là giai đoạn quan trọng bổ sung những tài liệu có giá trị vào lưu trữ lịch sử.

1.3 Xác định giá trị tài liệu tại lưu trữ lịch sử

Trong quá trình hoạt động của một các cơ quan trong máy nhà nước,  không thể tránh khỏi sự trùng lặp tài liệu, trùng lặp thông tin tài liệu giữa các phông lưu trữ. Vì vậy, khi chuyển giao các tài liệu của lưu trữ cơ quan vào lưu trữ lịch sử cũng cần xác định, đánh giá lại giá trị của tài liệu.

Theo Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001 và Nghị định 111/2004/NĐ-CP, nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là lựa chọn và kiểm tra các hồ sơ tiếp nhận từ lưu trữ cơ quan. Tại đây, các hồ sơ tài liệu được xem xét và định thời hạn bảo quản lần cuối. Những tài liệu trùng lặp giữa các phông lưu trữ được loại bỏ, chỉ giữ lại những tài liệu phản ánh chức năng hoạt động chính của cơ quan, đơn vị hình thành phông.

Công tác xác định giá trị tài liệu tại các lưu trữ lịch sử cũng được thực hiện phối hợp với công tác phân loại, thống kê và chỉnh lý tài liệu. Thời hạn bảo quản của các hồ sơ có thể được xem xét và thay đổi nếu thấy cần thiết.

2. Hội đồng xác định giá trị tài liệu

Hội đồng xác định giá trị tài liệu là một tổ chức tư vấn ở các cơ quan khi tiến hành xác định giá trị tài liệu, do thủ trưởng cơ quan ký quyết định thành lập mỗi khi tổ chức xác định giá trị tài liệu.

Theo Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001 và Nghị định 111/2004/NĐ-CP, Hội đồng xác định giá trị tài liệu có nhiệm vụ tư vấn cho thủ trưởng cơ quan xem xét và quyết định các danh mục hồ sơ, tài liệu cần giữ lại bảo quản và danh mục những tài liệu hết giá trị. Hội đồng xác định giá trị tài liệu sẽ giúp cho việc xác định giá trị tài liệu của cơ quan được thực hiện một cách thống nhất, chính xác và đúng với quy định của nhà nước.

Thành viên của Hội đồng xác định giá trị tài liệu phải là những người có hiểu biết về giá trị thực tiễn và giá trị lịch sử của tài liệu, hiểu rõ những tài liệu cần giữ lại để phục vụ hiện hành và nghiên cứu lịch sử trong tương lai. Thành phần của Hội đồng xác định giá trị tài liệu bao gồm:

- Chủ tịch hội đồng: Chánh văn phòng cơ quan, tổ chức ở trung ương; Chánh văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp phó của người đứng đầu đối với cơ quan, tổ chức khác.

- Các uỷ viên Hội đồng gồm:

+ Đại diện lãnh đạo cơ quan, đơn vị có tài liệu lưu trữ;

+ Đại diện của lưu trữ cơ quan [trình độ chuyên viên trở lên].

Hội đồng xác định giá trị tài liệu làm việc theo phương thức sau:

- Từng thành viên Hội đồng xem xét danh mục các tài liệu được giữ lại bảo quản và danh mục tài liệu đề nghị loại huỷ. Đối với danh mục tài liệu hết giá trị để loại huỷ cần xem xét lại thực tế tài liệu;

          - Hội đồng thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số;

          - Thông qua biên bản, trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, Hội đồng xác định giá trị tài liệu cần dựa vào các công cụ xác định giá trị tài liệu như: bảng thời hạn bảo quản tài liệu, danh mục hồ sơ…

Hoạt động của Hội đồng xác định giá trị tài liệu đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng cơ quan.

Sau khi hoàn tất nhiệm vụ được giao, Hội đồng xác định giá trị tài liệu tự giải thể.

3. Hội đồng thẩm tra xác định giá trị tài liệu

Theo Điều 13 Pháp lệnh lưu trữ quốc gia, Hội đồng Thẩm tra xác định giá trị tài liệu  do người đứng đầu cơ quan lưu trữ trung ương thành lập, nhằm tư vấn cho Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước trong việc thẩm tra, phê duyệt kết quả xác định giá trị tài liệu của cơ quan lưu trữ cấp trung ương; Tư vấn cho Lưu trữ tỉnh trong việc thẩm tra, phê duyệt kết quả xác định giá trị tài liệu của cơ quan lưu trữ cấp tỉnh, cấp huyện; tư vấn cho Lưu trữ huyện trong việc thẩm tra, phê duyệt kết quả xác định giá trị tài liệu của cơ quan lưu trữ thuộc nguồn nộp lưu vào lưu trữ huyện.

Cũng theo Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001 và Nghị định 111/2004/NĐ-CP, việc thẩm tra việc xác định giá trị tài liệu được phân định như sau:

- Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước thẩm tra các tài liệu ở các Trung tâm lưu trữ quốc gia và của các cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu vào các Trung tâm Lưu trữ quốc gia;

- Lưu trữ tỉnh thẩm tra tài liệu của lưu trữ tỉnh, lưu trữ huyện và các cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu vào lưu trữ huyện;

- Lưu trữ huyện thẩm tra tài liệu của các cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu vào lưu trữ huyện và của xã;

- Lưu trữ của các cơ quan, tổ chức cấp trên thẩm tra tài liệu của các đơn vị trực thuộc không thuộc nguồn nộp lưu tài liệu vào lưu trữ lịch sử.

Thành phần của Hội đồng Thẩm tra xác định giá trị tài liệu thường bao gồm:

Ở cấp trung ương:

- Đại diện lãnh đạo Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước làm Chủ tịch;

- Chuyên gia xác định giá trị tài liệu lưu trữ của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước làm Uỷ viên;

- Đại diện của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia hoặc đại diện cơ quan là đơn vị hình thành phông làm Uỷ viên.

Ở cấp địa phương:

- Chánh văn phòng Uỷ ban Nhân dân tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng;

- Chuyên gia xác định giá trị tài liệu lưu trữ tỉnh làm Uỷ viên;

- Đại diện lãnh đạo cơ quan có tài liệu làm Uỷ viên;

- Đại diện lưu trữ cơ quan có tài liệu làm Uỷ viên.

Hội đồng Thẩm tra xác định giá trị tài liệu được lập ra theo nhu cầu công tác xác định giá trị tài liệu của mỗi cơ quan cụ thể. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Hội đồng Thẩm tra xác định giá trị tài liệu được giải thể.

4. Tiêu huỷ tài liệu hết giá trị

Tiêu huỷ tài liệu hết giá trị là công việc thường xuyên của các cơ quan lưu trữ. Sau khi tiến hành xác định giá trị tài liệu, lựa chọn được những tài liệu có giá trị thực tiễn và giá trị lịch sử để bảo quản thì sẽ có một số tài liệu hết giá trị, không cần bảo quản nữa và đem ra tiêu huỷ.

Việc tiêu huỷ tài liệu hết giá trị có ý nghĩa đối với việc tiết kiệm ngân sách cho nhà nước, giải phóng kho tàng, trang thiết bị bảo quản và nhân lực. Việc tiêu huỷ tài liệu hết giá trị được thực hiện theo quy định của pháp luật và các quy phạm của ngành lưu trữ.

Tất cả những tài liệu hết giá trị loại ra để tiêu huỷ phải được sự thẩm tra lại của cơ quan lưu trữ cấp trên và được Hội đồng Thẩm định xác định giá trị tài liệu của Cục Văn thư Lưu trữ nhà nước đồng ý. Việc loại huỷ tài liệu hết giá trị cần tiến hành theo thủ tục sau:

- Những tài liệu loại để tiêu huỷ phải được phân loại theo đơn vị tổ chức của đơn vị hình thành phông, lập danh mục các tài liệu được tiêu huỷ.

- Danh mục tài liệu loại huỷ phải được thống kế cẩn thận, đảm bảo các yếu tố thông tin sau:

+ Số thứ tự;

+ Tên tài liệu loại huỷ;

+ Nội dung tài liệu;

+ Thời gian tài liệu; 

+ Số lượng bản [đối với tài liệu trùng thừa];

+ Lý do tiêu huỷ;

- Danh mục tài liệu loại hủy cần được các thành viên của Hội đồng xác định giá trị tài liệu cơ quan xem xét cụ thể và đối chiếu kiểm tra với thực tế tài liệu.

- Hội đồng xác định giá trị tài liệu cần phải họp bàn và cho ý kiến về bản danh mục tài liệu loại huỷ. Sau đó, trình danh mục tài liệu tiêu huỷ lên kèm theo biên bản họp Hội đồng xác định giá trị tài liệu để thủ trưởng cơ quan, tổ chức quyết định.

Theo Điều 12 của Nghị định 110, thẩm quyền tiêu huỷ tài liệu được phân định như sau:

- Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị bảo quản tại các Trung tâm lưu trữ quốc gia;

- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức khác thuộc nguồn nộp lưu tài liệu vào các Trung tâm lưu trữ quốc gia quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị của cơ quan,tổ chức sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước;

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị bảo quản tại lưu trữ tỉnh;

- Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu vào lưu trữ tỉnh quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị của cơ quan, tổ chức sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của lưu trữ tỉnh;

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị bảo quản tại lưu trữ huyện sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của lưu trữ tỉnh;

- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu và lưu trữ huyện quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị của cơ quan, tổ chức mình sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của lưu trữ huyện;

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị của xã sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của lưu trữ huyện;

- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức không thuộc nguồn nộp lưu vào các Trung tâm lưu trữ quốc gia, lưu trữ tỉnh, lưu trữ huyện quyết định tiêu huỷ tài liệu hết giá trị của cơ quan, tổ chức mình sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp.

Theo Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001, việc tiêu huỷ tài liệu hết giá trị phải được tiến hành theo đúng thủ tục do cơ quan lưu trữ trung ương quy định và phải đảm bảo tiêu huỷ hết thông tin trong tài liệu đó.

Khi tiến hành tiêu huỷ tài liệu hết giá trị thì lưu trữ cơ quan phải chịu trách nhiệm chính. Tài liệu đó phải được tiêu huỷ bằng cách đưa đến các cơ sở tái chế làm nguyên liệu giấy hoặc cắt vụn đóng bao khi chưa có điều kiện đưa đến nhà máy giấy. Đó là phương pháp tốt nhất để tiêu huỷ hết thông tin, bảo vệ bí mật tài liệu đồng thời tiết kiệm nguyên liệu. Việc đóng gói vận chuyển tiêu huỷ tài liệu hết giá trị phải được lập biên bản có sự chứng kiến của đại diện lưu trữ cơ quan, bảo vệ cơ quan. Nghiêm cấm mọi hình thức đưa tài liệu tiêu huỷ sử dụng vào mục đích khác như bán, tặng, cho…

Quá trình tiêu huỷ tài liệu phải được thể hiện bằng các văn bản và phải lập thành hồ sơ. Hồ sơ về việc loại huỷ tài liệu bao gồm các tài liệu:

+ Tờ trình về việc tiêu huỷ tài liệu hết giá trị;

+ Danh mục tài liệu hết giá trị;

+ Biên bản họp Hội đồng xác định giá trị tài liệu;

+ Biên bản họp Hội đồng thẩm tra xác định giá trị tài liệu, kèm  
              theo các ý kiến của Hội đồng xác định giá trị tài liệu và Hội
              đồng thẩm tra xác định giá trị tài liệu [nếu có];

+ Quyết định tiêu huỷ tài liệu của người có thẩm quyền;

+ Biên bản tiêu huỷ tài liệu, các văn bản thẩm định [nếu có], các
              tài liệu có liên quan.

          Hồ sơ về việc tiêu huỷ tài liệu hết giá trị phải được bảo quản ở lưu trữ cơ quan với thời hạn 20 năm kể từ ngày tài liệu được tiêu huỷ.

Biên bản tiêu huỷ tài liệu được làm theo mẫu sau:

Tên cơ quan                    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

…………….                               Độc lập - Tự do – hạnh phúc

 

- Căn cứ Điều 11, Nghị định 111/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001;

          - Căn cứ Quyết định số ….. ngày …. tháng …. năm của thủ trưởng cơ quan…. về việc tiêu huỷ tài liệu;

Hôm nay, ngày … tháng …. năm…

Tại ………………………………. Chúng tôi gồm:

1,…………………………. đại diện ……………………………………

2,………………………….. đại diện …………………………………..

3,………………………….. đại diện …………………………………..

Đã tiến hành tiêu huỷ số tài liệu hết giá trị thuộc phông ………………

Biện pháp tiêu huỷ tài liệu: …………………………………………......

……………………………………………………….…………………

…………………………………………………………………………

Chúng tôi đã tiêu huỷ số tài liệu theo Danh mục tài liệu loại huỷ đúng quy định của nhà nước.

Đại diện đơn vị                                                   Xác nhận của cơ quan

   có trách nhiệm huỷ tài liệu                                              [ký tên, đóng dấu]         

Page 2

Video liên quan

Chủ Đề