Trong cơ cấu giá trị xuất khẩu năm 2002 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của nước ta là

Hà Nội [TTXVN 27/12/2002] Theo Bộ Thương mại, năm 2002 cả nước đạt kim ngạch xuất khẩu 16,5 tỷ USD, tăng gần 10% so với năm ngoái. Riêng thành phố Hồ Chí Minh đã đạt kim ngạch xuất khẩu 8,4 tỷ USD, chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu cảu cả nước. 12/15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch tăng hơn so với năm ngoái. Trong đó có nhiều mặt hàng đạt mức tăng trưởng rất cao như thủ công mỹ nghệ, than đá, hạt điều, cao su. Ba mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, vượt ngưỡng 2 tỷ USD là dầu thô trên 3,2 tỷ USD, may mặc 2,7 tỷ USD và thủy sản trên 2 tỷ USD. Trong số 23 thị trường có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, có 10 thị trường đạt mức tăng trưởng xuất khẩu từ 10% trở lên. Một số thị trường mới, tuy kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng mức tăng rất đáng khích lệ như Đan Mạch, Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất. Riêng thị trường Mỹ, sau một năm thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD. Đạt được những thành công trên, theo phân tích của Bộ Thương mại là do các chính sách chỉ đạo thông thoáng của chính phủ, các chính sách tín dụng ưu đãi xuất khẩu, miễn giảm các loại phí và lệ phí, các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, các hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, nhiều thị trường mới được mở, tạo ra triển vọng cho những năm tiếp theo. Năm 2002, nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp được thực hiện. Lần đầu tiên, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Hiệp hội các nước xuất khẩu hàng dệt may với sự tham gia của 33 nước và vận động các nước xuất khẩu dệt may ủng hộ đề xuất bãi bỏ hạn ngạch xuất hàng dệt may vào EU. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã ký Hiệp dịnh khung về tài trợ với Ngân hàng quốc tế Matxcơva [IBM], theo đó cung cấp cho IMB hạn mức tín dụng 20 triệu USD để hỗ trợ doanh nghiệp Nga mua hàng của Việt Nam. Gia tăng xúc tiến thương mại là một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công. 100 doanh nghiệp cùng với các đoàn kinh tế liên ngành đi khảo sát, xúc tiến thương mại tại thị trường châu Phi, Trung Quốc, Belarut, Ukraina, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu hải sản, rau quả tươi, nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc... Tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam đã hợp tác với Trung tâm thương mại quốc tế [ITC], nhóm đặc trách về xúc tiến thương mại của APEC, các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật Bản, Thụy Sĩ, Hàn Quốc triển khai nhiều chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp. Ngoài các Hội chợ, triển lãm trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tổ chức khoảng 80 hội chợ ở nước ngoài và tham gia nhiều hội chợ quốc tế nhằm quảng bá rộng rãi sản phẩm Việt Nam. Từ năm 2002, Chính phủ đã dành khoản ngân sách tương đương với 0,25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Năm 2002 cũng là năm nhiều doanh nghiệp tăng cường đầu tư, tiếp nhận công nghệ mới, hợp lý hóa tổ chức sản xuất, kinh doanh, cải tiến mẫu mã, tăng sản lượng, nâng cao chất lượng, tạo sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2003, Việt Nam dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng xuất khẩu 7,5% đến 8%./.

1. Cơ cấu hàng hoá xuất, nhập khẩu của Việt Nam [theo giai đoạn 2008 - 2018]

Xuất khẩu đã trở thành một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống thu nhập cho người dân. Hoạt động xuất khẩu đóng góp về nhiều mặt, trực tiếp làm tăng giá trị sản xuất, gián tiếp thúc đẩy phát triển ngành liên quan, nâng cao trình độ lao động, nâng cao trình độ sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế.

Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý của Việt Nam thời gian qua là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Chính phủ, luôn gắn liền với chủ trương về hội nhập quốc tế về kinh tế của đất nước và quá trình tự do hóa thương mại. Với những trọng tâm trong chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý của Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và khai thác có hiệu quả thành tựu của quá trình hội nhập về kinh tế.

Trong giai đoạn 2008 - 2018, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và giảm dần xuất khẩu nhóm hàng thô và sơ chế.

- Cụ thể cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 như sau:

+ Lương thực, Đồ uống và thực phẩrn và thuốc lá, động vật sống, 0.30% .19.41%;

+ Nguyên vật liệu thô, không dùng để ăn, trừ nhiên liệu là 3.97%;

+ Nhiên iệu, dầu mỡ nhờn và vật liệu liên quan, 20.34%;

+ Dầu, mỡ, chất béo, sáp động, thực vật, 0.16%;

+ Hoá chất và sản phẩm liên quan, 2.31%;

+ Hàng chế biến phân loại theo nguyên liệu, 10.21%

+ Máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng, 11,75%;

+ Hàng chế biến khác, 30.96%;

+ Hàng hoá không thuộc các nhóm trên 0.58%.

Trong giai đoạn này, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng lương thực, thực phẩm và động vật sống giảm dần từ 19,41% xuống còn 10,31%; nhóm hàng nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và vật liệu liên quan giảm mạnh từ 20,34% xuống 1,58%, trong khi xuất khẩu nhóm hàng máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng đã tăng mạnh từ 11,75% len 41,91%.

2. Sự chuyển biến cơ cấu hàng hoá xuất khẩu năm 2008 và 2018

Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu năm 2008 và 2018 đã cho thấy sự chuyển dịch khá mạnh mẽ và xu hướng chuyển dịch từ xuất khẩu hàng hoá nguyên liệu thô sang hàng hoá có hàm lượng chế biến cao hơn. Hai nhóm hàng máy móc, phương tiện vận tải, phụ tùng và nhóm hàng chế biến đã chiếm đến 80,57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá so với 41,17% của năm 2008.

Đặc biệt, các sản phẩm điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu đạt 50 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 21,05% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2018. Kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng tăng trưởng mạnh, đạt 29,44 tỷ USD, chiếm 12,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu trong giai đoạn 2008-2018 đã phản ánh bước tiến và sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu cũng như sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá trong nước, đây cũng là cơ sở quan trọng thúc đẩy phát triển xuất khẩu hàng hoá và góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.

Xuất khẩu của Việt Nam những năm qua luôn đạt thành tích ấn tượng, tăng liên tục trọng nhiều năm. Năm 2018, Việt Nam đứng vị trí thứ 26 về quy mô xuất khẩu [đứng thứ 3 trong ASEAN, sau Thái Lan và Malaysia] với một số mặt hàng xuất khẩu đứng trong nhóm 10 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, như: nhóm hàng về thiết vị văn phòng và viễn thông [thứ 9], dệt [thứ 8], quần áo [thứ 4].

Năm 2020, trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề từ Covid-19, xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với năm trước, xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng dương, kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019. Cán cân thương mại liên tục thặng dư, các kỷ lục xuất siêu liên tiếp được thiết lập. Năm 2016, xuất siêu 1,77 tỷ USD và tiếp xuất siêu 2,11 tỷ USD năm 2017; 6,83 tỷ USD năm 2018; 10,87 tỷ USD năm 2019 và ghi nhận mức kỷ lục gần 19,1 tỷ USD năm 2020.

Xuất khẩu hàng hóa có sự chuyển biến rõ rệt về mặt chất, thể hiện đáng chú ý qua sự chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu. Cùng với tiêu dùng nội địa, xuất khẩu đã cho thấy vai trò quan trọng, là trụ cột trong tăng trưởng, đặc biệt tiêu biểu ở giai đoạn 2016-2020.

3. Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu

Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2018 chủ yếu vẫn là nhóm hàng tư liệu sản xuất, trong đó nhập khẩu máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng đã chiếm đến 39,92% trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2018 so với 27,78% của năm 2008. Nhập khẩu nhóm hàng chế biến dùng làm nguyên liệu có xu hướng giảm dần từ 24,92% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của năm 2008 xuống 20,43% năm 2018.

Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng tiêu dùng, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, đồ uống có xu hướng tăng trong giai đoạn 2008 - 2018, chiếm 5,61% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của năm 2008 lên 6,79% năm 2018.

Cơ cấu nhập khẩu cho thấy hàng nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu để phục vụ sản xuất trong nước. Nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm hàng thiết yếu, gồm máy móc thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu và phục vụ các dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, điện tử... Bên cạnh đó, nhu cầu nhập khẩu các hàng hoá xa xỉ và cao cấp cũng tăng nhanh trong giai đoạn này.

4. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc [2008 - 2017]

Theo tạp chí cộng sản, hiện nay Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Hoa Kỳ [không tính khối nước]. Giai đoạn 2008 - 2017, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc tăng trưởng rất cao, từ 4.535,7 triệu USD vào năm 2008 lên 35.403,9 triệu USD vào năm 2017, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân đạt 26,57%/năm.
Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc ngày càng đa dạng, phong phú. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc gồm: Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện, cao su, điện thoại các loại và linh kiện… Mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này là máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện [chiếm tỷ trọng 15,40%], tiếp đến là cao su [8,18%], điện thoại các loại và linh kiện [6,78%], xơ sợi dệt các loại [6,14%], gỗ và sản phẩm gỗ [4,97%]…

5. Kết quả đạt được hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc

Thứ nhất, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giữa các nhóm hàng chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030 và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2008 - 2017 có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực: Giảm tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản và nông lâm thủy sản, tăng tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo. Cụ thể, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản và nông lâm thủy sản giảm từ 29,68% và 30,63% năm 2008 xuống 6,44% và 28,46% năm 2015, xuống còn 3,72% và 21,70% năm 2017; tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo tăng từ 14,86% năm 2008 lên 60,52% năm 2015, lên tới 72,27%.

Vị trí của các nhóm hàng thay đổi trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc: Năm 2008, nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo ở vị trí cuối cùng [với tỷ trọng thấp nhất 14,86%] đã vươn lên vị trí đầu tiên vào năm 2017 [với tỷ trọng áp đảo 72,28%], đẩy nhóm hàng nông lâm thủy sản, nhiên liệu kháng sản và hàng hóa khác xuống vị trí thứ hai, thứ ba và thứ tư. Chất lượng các nhóm hàng được cải thiện theo hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng nguyên liệu thô hoặc sơ chế. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc giai đoạn 2008 - 2017 phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030 và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trong nội bộ từng nhóm hàng về cơ bản chuyển dịch theo hướng tích cực. từng nhóm hàng thể hiện như sau:

- Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng khoáng sản thô, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến trên cơ sở đầu tư công nghệ, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị xuất khẩu. Cụ thể, tỷ trọng khoáng sản thô giảm từ 100,00% năm 2008 xuống 83,49% năm 2017, tỷ trọng xăng dầu tăng từ 7,29% năm 2009 lên 16,51% năm 2017.

- Nhóm hàng nông lâm thủy sản đã hướng vào các sản phẩm chế biến, phát triển sản phẩm xuất khẩu có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, giảm tỷ trọng hàng nguyên liệu thô hoặc sơ chế, từ 95,93% năm 2008 xuống 80,13% năm 2017; tăng tỷ trọng hàng chế biến từ 4,07% năm 2008 lên 19,87% năm 2017, tăng tỷ trọng thủy sản, rau quả và gạo [ba mặt hàng này đang gia tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu].
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo hướng đến phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, nâng cao tỷ lệ giá trị trong nước, giảm phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, giảm tỷ trọng hàng có giá trị gia tăng thấp và hàng gia công, từ 72,55% và 80,04% năm 2008 xuống 55,64% và 60,34% năm 2017, tăng tỷ trọng hàng có giá trị gia tăng cao và hàng tự sản xuất từ 27,45% và 19,96% năm 2008 lên 44,36% và 39,66% năm 2017. Một số sản phẩm dệt may, da giầy… do doanh nghiệp Việt Nam tự thiết kế mẫu mã, sản xuất và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu của thị trường Trung Quốc.

Thứ ba, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc có xu hướng chuyển dịch từ các mặt hàng nguyên liệu thô hoặc sơ chế sang các mặt hàng có hàm lượng chế biến.

Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng hàng nguyên liệu thô hoặc sơ chế, tăng tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo [gồm cả hàng nhiên liệu chế biến, hàng nông thủy sản chế biến và hàng công nghiệp chế biến chế tạo]. Cụ thể, tỷ trọng hàng nguyên liệu thô hoặc sơ chế giảm từ 63,86% năm 2009 xuống 33,22% năm 2014 và xuống còn 20,49% năm 2017; tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo tăng từ 36,14% năm 2009 lên 66,78% năm 2014 và 79,51% năm 2017.

Trân trọng!

Video liên quan

Chủ Đề