Vì sao Đảng ta khẳng định phát triển kinh tế thị trường là tất yếu khách quan

Bài 2: Nhà nước kiến tạo phát triển tại Việt Nam

Xây dựng “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt phục vụ người dân và doanh nghiệp” là một định hướng của Chính phủ đang nhận được sự đồng tình, ủng hộ của xã hội. Việc xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển hay Nhà nước kiến tạo phát triển rất phù hợp với việc xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Mô hình “Nhà nước kiến tạo phát triển” có những ưu điểm gì?

Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm [Donald Trump] vừa ký sắc lệnh về độc lập năng lượng, hạ thấp các tiêu chuẩn phát thải cho các nhà máy điện dùng than. Việc hạ thấp tiêu chuẩn này được tin là sẽ tạo điều kiện để mở rộng sản xuất điện than, nhờ đó mà ngành khai thác than cũng có thể mở rộng sản xuất. Hệ quả tiếp theo là công ăn việc làm mới sẽ được tạo ra cho những người dân Mỹ. Cách hành xử như vậy là rất đặc trưng cho mô hình nhà nước điều chỉnh. Nhà nước chỉ tác động lên các ngành công nghiệp bằng cách điều chỉnh chính sách, pháp luật chứ không trực tiếp xây dựng kế hoạch rồi đầu tư phát triển các ngành này. Và đây cũng là điểm khác biệt hết sức quan trọng giữa mô hình nhà nước điều chỉnh với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.

Thực ra, thuật ngữ “nhà nước kiến tạo phát triển” được nhà nghiên cứu C.Giôn-xơn [Chalmers Johnson] đưa ra từ những năm 80 của thế kỷ trước khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Ông nhận thấy rằng trong sự phát triển thần kỳ ấy có vai trò rất quan trọng của nhà nước. Nhà nước Nhật Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Sau này, ngoài Nhật Bản ra, Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác... đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển. Đặc trưng hết sức cơ bản của mô hình nhà nước này là nhà nước trực tiếp đề ra một kế hoạch phát triển công nghiệp [với những tham vọng lớn] và đầu tư mạnh mẽ về cơ chế, chính sách và nhiều khuyến khích khác để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, đây là mô hình nhà nước nằm ở giữa nhà nước điều chỉnh [theo chủ thuyết thị trường tự do] và nhà nước kế hoạch hóa tập trung [theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống]. Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường mà nhà nước kiến tạo phát triển chủ động can thiệp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Để đạt được mức tăng trưởng GDP gấp đôi, một nhà nước điều chỉnh [như Hoa Kỳ] sẽ phải mất đến 50 năm, trong lúc đó một nhà nước kiến tạo phát triển [như Trung Quốc] chỉ mất 10 năm. Từ ví dụ về sắc lệnh độc lập năng lượng của Tổng thống Mỹ Đ.Trăm, chúng ta cũng sẽ thấy khá rõ những hạn chế của mô hình nhà nước điều chỉnh. Cụ thể, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc hạ thấp tiêu chuẩn phát thải chưa chắc đã khiến các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất điện than nhiều hơn; việc khai thác than vì vậy chưa chắc đã được mở rộng; công ăn việc làm mới cho người dân Mỹ chưa chắc đã được tạo ra.

Nhiều người cho rằng, nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa tập trung.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thấy rằng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển mạnh mẽ nhất trong những thập niên nửa cuối của thế kỷ trước. Sự hấp dẫn của mô hình này đã suy giảm ít nhiều khi cuộc khủng khoảng tài chính châu Á năm 1997 xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều nước, đặc biệt các nước Đông Á [là những nước theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển]. Nhiều học giả bắt đầu có cái nhìn phê phán hơn đối với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển và họ chỉ ra không ít những hạn chế của mô hình này. Ví dụ như sự hoạch định kế hoạch phát triển công nghiệp của nhà nước có thể dẫn đến hiện tượng dư thừa năng lực sản xuất quá lớn như ở Trung Quốc hay trong thời đại toàn cầu hóa, khi các tập đoàn xuyên quốc gia đang làm chủ việc hoạch định chính sách phát triển nhiều ngành công nghiệp thì nhà nước không dễ đi ngược lại với các tập đoàn này.

Tuy nhiên, nhà nước kiến tạo phát triển vẫn là một mô hình đầy tiềm năng, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.

Kiến tạo phát triển chính là tạo ra những cải cách đột phá

Ở Việt Nam, thuật ngữ “Chính phủ kiến tạo phát triển” lần đầu tiên được đưa ra trong một bài viết của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào năm 2014. Thế nhưng, thuật ngữ này chỉ thật sự trở thành một định hướng của cải cách, từ khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra cam kết xây dựng một “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân” trong phát biểu nhậm chức của mình và nỗ lực đẩy mạnh thực hiện trong thời gian qua.

Nếu đặt câu hỏi: Các Thủ tướng của chúng ta có chịu ảnh hưởng của lý thuyết về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển được các nhà nghiên cứu đưa ra từthế kỷ trước hay không? Câu trả lời có lẽ là không. Kể từ khi từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, về cơ bản chúng ta đã đi theo mô thức của một nhà nước kiến tạo phát triển. Cái mà các Thủ tướng của chúng ta quan tâm là thúc đẩy những cải cách để kiến tạo ra sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc cho đất nước.

Có lẽ, trong điều kiện của Việt Nam thì để kiến tạo phát triển Nhà nước cần phải hoạch định đường lối phát triển cho đất nước [đặc biệt là đường lối công nghiệp hóa và chương trình xóa đói giảm nghèo] và thúc đẩy việc hiện thực hóa đường lối đó. Thúc đẩy việc hiện thực hóa thì không có nghĩa là làm thay người dân và các doanh nghiệp mà tối thiểu phải làm được những việc sau đây:

Trước hết,Nhà nước phải tạo ra được hệ thống khuyến khích để các nguồn lực của xã hội được tập trung đầu tư cho các mục tiêu phát triển. Hệ thống khuyến khích đó có thể là chi tiêu công, là thuế, là tín dụng, là thương quyền... Ngoài ra, Nhà nước còn cần phải phát huy thế mạnh của nhà nước điều chỉnh là tạo ra khuôn khổ thể chế và mọi điều kiện cần thiết khác để từng người dân có thể dễ dàng làm ăn và mưu cầu hạnh phúc. Khi và chỉ khi hàng triệu người dân Việt Nam có điều kiện làm ăn dễ dàng, có năng lực làm chủ cuộc sống và sáng tạo tương lai thì sự giàu có và thịnh vượng bền lâu mới đến với đất nước ta. Và đó cũng mới chính là sự phát triển thực chất nhất. Điều quan trọng là phải xây dựng cho được những khuôn khổ thể chế cần thiết để cho công việc làm ăn của người dân ngày một dễ dàng hơn. Quan trọng nhất ở đây là quyền tự do kinh doanh, quyền tự do tài sản, quyền tự dokhế ước... phải được bảo đảm; sự minh bạch phải được tăng cường; các hợp đồng phải được tôn trọng và bảo vệ; các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, một điều kiện không thể thiếu ở đây là việc bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô. Vì thiếu sự ổn định kinh tế vĩ mô, không doanh nghiệp cũng như một người dân nào có thể làm ăn dễ dàng được. Đây vì vậy là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ kiến tạo phát triển.

Hai là,Nhà nước cần tìm mọi cách để cung cấp các dịch vụ công chất lượng, giá rẻ cần thiết cho sự phát triển năng lực và việc làm ăn của các doanh nghiệp, của những người dân. Muốn làm được điều này, phải xây dựng được một bộ máy hành chính-công vụ hết sức chuyên nghiệp và hiệu quả. Bộ máy này phải được tuyển dụng, bổ nhiệm nghiêm ngặtdựatrên cơ sở của trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Ba là,nhà nước phải biết tạo ra cạnh tranh lành mạnh để tất cả mọi chủ thể trong xã hội đều phải vươn lên và để thu hút được người tài. Tiêu chí để cạnh tranh trong đời sống kinh tế là chất lượng hơn và giá rẻ hơn. Tiêu chí để cạnh tranh trong đời sống chính trị là tài giỏi hơn và đạo đức hơn. Trong đời sống kinh tế, thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và kiểm soát gắt gao những doanh nghiệp còn chiếm giữ vị thế độc quyền là rất quan trọng. Độc quyền không chỉ dẫn đến lạm quyền mà còn làm cho hoạt động kinh tế kém hiệu quả và xã hội kém năng động. Một cơ chế để người tài được tuyển chọn cũng hết sức quan trọng. Một phần của cơ chế này là áp đặt chế độ trách nhiệm rất rõ ràng, để những người đứng đầu bắt buộc phải chọn cho được người tài [không chọn được người tài không thể hoàn thành được công việc]. Tất nhiên, chúng ta cũng phải trao quyền tuyển chọn cho những người đứng đầu này.

Với một khuôn khổ khái niệm như trên, Nhà nước ta quả thực có thể kiến tạo ra sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước. Vấn đềlà chúng ta cần sớm làmrõ khung khái niệm về nhà nước kiến tạo phát triển [chính phủ kiến tạo phát triển] mà chúng ta mong muốn xây dựng trên đất nước Việt Nam.

[còn nữa]

TSNGUYỄN SĨ DŨNG, TS NGUYỄN MINH PHONG,

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bài 3: Vai trò phù hợp cho doanh nghiệp nhà nước

Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước [DNNN] vẫn đang là trụ cột hàng đầu của nền kinh tế, đóng góp tới 28,8% GDP. Vấn đề sắp xếp, đổi mới DNNN, hay gần đây được sử dụng với thuật ngữ là tái cơ cấu DNNN đang được đặt ra. Tái cơ cấu là để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, đặt DNNN ở một vị trí phù hợp trong nền kinh tế, từ đó góp phần tạo ra động lực phát triển cho chính DNNN và cho các loại hình doanh nghiệp khác, với mục đích cuối cùng là thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển đất nước, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội.

DNNN mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước

Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là một trong ba trụ cột chính của mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế đã được cụ thể hóa tại Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Một phương pháp quan trọng của việc tái cơ cấu là cổ phần hóa DNNN, rút bớt sự hiện diện của vốn Nhà nước tại những doanh nghiệp, những mảng lĩnh vực mà Nhà nước không cần phải nắm giữ, để cho thị trường tự điều tiết.

Với quan điểm đó việc cổ phần hóa đã được thực hiện quyết liệt trong những năm qua. Theobáo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp,năm 2001, Nhà nước có khoảng 6.000DNNN, đến năm 2011 chỉ còn 1.369 DNNN và đến hết tháng 10-2016 chỉ còn 718 DNNN. Nếu thời điểm năm 2001, DNNN xuất hiện ở hơn 60 ngành, lĩnh vực thì đến nay chỉ còn tập trung vào 19 ngành, lĩnh vực. Đại đa số DNNN có quy mô vừa và lớn.

Về đóng góp cho nền kinh tế, mặc dù số lượng chiếm tỷ lệ rất nhỏ về số lượng trong khu vực doanh nghiệp [khoảng 0,67%], nhưng DNNN vẫn là nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Tốp 5 doanh nghiệp đóng góp thuế nhiều nhất năm 2015 [năm 2016 chưa được công bố] thì đều là doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn Nhà nước chi phối, đó là: Tập đoàn Viễn thông Quân đội [Viettel],Tổng công ty Khí Việt Nam-Công ty CP, Tổng công ty Viễn thông MobiFone, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam [PVN], Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam [VietinBank]. Nếu mở rộng ra tốp 10 doanh nghiệp đóng thuế hàng đầu năm 2015 thì cũng có tới 7 doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn Nhà nước chi phối. DNNN cũng đang đóng góp lớn nhất vào GDP với tỷ lệ 28,8%, so với doanh nghiệp ngoài nhà nước là 11,8% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [FDI] là 17,9%.

Tất nhiên, ở chiều ngược lại, cũng phải thấy rằng, DNNN giữ một lượng vốn cùng khối lượng tài sản lớn trong nền kinh tế. Cụ thể, tổng vốn chủ sở hữu tại DNNN hiện là 1,234 triệu tỷ đồng; tổng tài sản là 3,105 triệu tỷ đồng. Nhiều ý kiến cho rằng, lượng tài sản khổng lồ DNNN nắm giữ chưa phát huy hết được hiệu quả. Trong đó có không ít doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản.

Nói như thế, để thấy rằng, lối suy nghĩ DNNN là yếu kém toàn diện, cần phải cắt bỏ sớm là không đúng đắn. Nhưng đồng thời, cũng phải nhìn nhận rằng, việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là điều tất yếu. Bởi xét trên diện rộng thì nền kinh tế thế giới đang ngày càng chuyển động nhanh hơn, đòi hỏi toàn bộ các thành tố cấu thành cũng phải chuyển động theo. Trên thế giới có những tập đoàn kinh tế tư nhân rất hùng vĩ bỗng trở thành con số 0 chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ vì không thay đổi, để thích ứng kịp sự thay đổi của nền kinh tế. Vì thế, nền kinh tế Việt Nam cũng phải luôn chủ động thay đổi, nhằm thích ứng, nâng cao hiệu quả. Trong đó, DNNN chính là một trong những trọng tâm phải được xem xét thay đổi. Tái cơ cấu DNNN quan hệ hữu cơ với việc tái cơ cấu đầu tư công và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

DNNN nên giữ vai trò gì trong nền kinh tế?

Liên quan đến tái cơ cấu DNNN, có hai vấn đề cần được giải quyết tốt: Thứ nhất là DNNN có vai trò gì, sẽ làm gì, xuất hiện ở những lĩnh vực nào? Thứ hai là làm thế nào để nâng cao được khả năng quản trị, từ đó nâng cao hiệu quả.

Về vấn đề thứ nhất là vai trò và lĩnh vực hoạt động của DNNN, trong văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN theo hướng: DNNN tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”. Còn các nguồn lực Nhà nước [tài nguyên đất đai, ngân sách Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...] cùng với các công cụ, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tiễn ở nước ta, khi nguồn lực Nhà nước cùng với các cơ chế, chính sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển ở lĩnh vực, địa bàn đó. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; còn doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Một vấn đề nữa cần lưu tâm, đó là từ xưa tới nay, DNNN thường phải thực hiện các nhiệm vụ công ích. Chính điều này đã gây ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả kinh tế của DNNN. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả của một DNNN thường phải xét tới yếu tố “làm nhiệm vụ”, có nghĩa là dù không muốn thì doanh nghiệp vẫn phải thực hiện nhiệm vụ ấy, vì các doanh nghiệp ngoài nhà nước không làm, không muốn làm. Ví dụ như, các dự án ở thành phố lớn, nơi đông dân cư thì rất nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn làm, nhưng các dự án ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì ít doanh nghiệp muốn làm, thậm chí có những dự án không thể kêu gọi nổi vốn đầu tư xã hội. Vì vậy, bắt buộc phải có những DNNN để điều tiết những méo mó đó cho thị trường. Vừa qua, nếu không phải Viettel-một DNNN-đầu tư quyết liệt trong 6 tháng, thì không biết đến bao giờ Việt Nam mới có được một mạng viễn thông 4G hiện đại, phủ sóng toàn quốc.

DNNN còn là công cụ để Nhà nước trực tiếp điều tiết nền kinh tế. Ví dụ như, để giữ ổn định mặt bằng giá đầu vào cho các ngành sản xuất, trong nhiều năm qua, mặc dù thị trường có nhiều biến động, nhưng giá điện nhìn chung được giữ ổn định ở mức thấp. So với nhiều nước trong khu vực, giá điện Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, giá bán lẻ điện hiện nay của Việt Nam là 1.622 đồng/kWh, tương đương 7,31 cent/kWh. Trong khi đó, Trung Quốc là 10,04 cent/kWh, Thái Lan 11,81 cent/kWh...

Có ý kiến chuyên gia cho rằng, nên có một lộ trình để giảm dần tỷ trọng của DNNN trong nền kinh tế, cụ thể là bằng thước đo GDP. Cụ thể là trong bức tranh GDP chung của đất nước, thì DNNN chỉ nên chiếm khoảng 15% GDP, còn lại doanh nghiệp ngoài nhà nước là 65% GDP và doanh nghiệp FDI khoảng 20% GDP. Nếu theo tỷ lệ này, so với mức đang đóng góp 28,8% GDP của đất nước, thì rõ ràng DNNN sẽ có sự thu hẹp lớn.

Thế nhưng, cũng về vấn đề này, có ý kiến lại cho rằng, điều cần quan tâm không phải là bắt buộc thành phần kinh tế nào có tỷ lệ trong GDP là bao nhiêu, mà là hiệu quả cho sự phát triển của đất nước. Theo quy luật về con số thì nếu doanh nghiệp có tỷ lệ đạt khoảng 30% thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến phần 70% còn lại. Nếu có tỷ lệ từ 10-30% thì sẽ có tác động nhưng không quyết định. Còn nếu nhỏ hơn 10% thì gần như không có tác động. Vì thế, đặt ra mục tiêu tỷ lệ đóng góp GDP khoảng bao nhiêu % có nghĩa là muốn loại hình doanh nghiệp nào giữ vai trò gì trong nền kinh tế.

Có ý kiến cho rằng, có thể chia DNNN thành 3 loại: Thứ nhất là DNNN làm nhiệm vụ công ích. Thứ hai là DNNN kinh doanh vốn [ví dụ nhưTổng công ty kinh doanh vốn nhà nước [SCIC]. Thứ ba là DNNN thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quốc gia. Trong đó, loại doanh nghiệp thứ ba cần được Nhà nước nắm chặt và quản trị sâu.

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, nếu muốn quốc gia phát triển với tốc độ nhanh hơn thì cần phải có những công cụ, những cách thức quản lý nền kinh tế phù hợp, trong đó vai trò của những doanh nghiệp chiến lược là rất quan trọng, ở một số quốc gia thì đó là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ.

Tại Việt Nam, hiện nay, có những cái nhìn khá định kiến về DNNN, cho rằng cứ DNNN là yếu kém. Thế nhưng, Viettel là một DNNN đang có hiệu quả sản xuất kinh doanh đứng đầu nền kinh tế Việt Nam, nộp thuế nhiều nhất Việt Nam và cũng là tiên phong đầu tư ra nước ngoài. Trong đó, tại nhiều quốc gia, Viettel chiếm lĩnh thị trường chỉ trong một thời gian ngắn, lấn át cả những doanh nghiệp viễn thông lớn nhất thế giới. Thành công của Viettel minh chứng rằng, loại hình doanh nghiệp nào cũng có thể thành công, cái chính là phải có những lãnh đạo doanh nghiệp giỏi, có chiến lược phát triển tốt, khả năng thực thi tốt.

Phải chăng việc một số DNNN hoạt động kém hiệu quả trong thời gian qua là do được quá nhiều ưu đãi, khiến cho đánh mất khả năng cạnh tranh? DNNN phải chăng chỉ nên là những doanh nghiệp chuyên thực hiện những việc khó, những nhiệm vụ lớn mà doanh nghiệp bên ngoài chưa thể đảm đương được hoặc không muốn làm. Phải luôn luôn đặt DNNN trước những đòi hỏi rất cao, rất khắt khe.

Để nâng cao khả năng quản trị, từ đó nâng cao hiệu quả của bất cứ doanh nghiệp nào, trong đó có DNNN thì một yếu tố rất quan trọng là phải có được một đội ngũ nhân sự giỏi, tinh thông về ngành nghề kinh doanh cốt lõi và có khát vọng vươn lên. DNNN đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước [thông qua Đảng ủy và những người đại diện vốn Nhà nước tại doanh nghiệp], tồn tại vì lợi ích của quốc gia, nhưng đồng thời phải áp dụng các cơ chế, cách thức quản lý, công tác nhân sự tiên tiến nhất, giống như doanh nghiệp tư nhân, như thế thì mới nâng cao được hiệu quả hoạt động.

Khắc phục những hạn chế trong cổ phần hóa

Theo đánh giá của Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, trong thời gian qua, các DNNN sau cổ phần hóa [CPH] hầu hết đều sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nộp ngân sách và thu nhập người lao động được nâng lên. Cụ thể, theo số liệu tổng hợp từ Bộ Tài chính, kết quả hoạt động năm 2015 của 350 doanh nghiệp sau CPH với trước khi CPH cho thấy, lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp này tăng 49%, nộp ngân sách tăng 27%, tổng tài sản tăng 39%, doanh thu tăng 29%, thu nhập bình quân người lao động tăng 33%. Tuy nhiên, cũng có những doanh nghiệp lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn hơn, lợi nhuận liên tục giảm, số nợ phải trả tăng nhưTập đoàn Cao su Việt Nam[lợi nhuận giảm từ 11.838 tỷ đồng năm 2011 xuống còn 2.200 tỷ đồng năm 2015; công nợ phải trả năm 2015 là 21.220 tỷ đồng trên vốn điều lệ là 35.210 tỷ đồng].

Thực tế thì loại hình doanh nghiệp nào cũng có doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp yếu. Các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần mạnh nhất trên thế giới cũng không tránh khỏi việc kinh doanh thua lỗ, phá sản. Vì thế, CPH không phải là đáp số chắc chắn để nâng cao hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, CPH là một xu thế đúng và tất yếu.

Vậy CPH mang lại điều gì để làm cho doanh nghiệp hiệu quả hơn, tốt hơn cho nền kinh tế? Đó là, CPH sẽ huy động được trí tuệ và vốn của xã hội vào doanh nghiệp, đồng thời sẽ tạo ra sức ép phải thành công. Sức ép hiệu quả ấy buộc doanh nghiệp phải chọn được nhân sự tốt, chọn được chiến lược kinh doanh đúng đắn, chọn được cách thức điều hành doanh nghiệp. Sức ép càng lớn thì những người đứng đầu doanh nghiệp càng buộc phải lựa chọn, sàng lọc để có bộ máy tốt nhất cho mình, nếu không chính bản thân họ cũng không thể tồn tại được.

Như vậy, có thể hiểu CPH là một phương thức để đổi mới doanh nghiệp; chứ CPH có lẽ không phải là mục tiêu. Vì vậy, có nhà kinh tế cho rằng, cần phải tính toán xem CPH như thế nào để ngân sách Nhà nước được lợi nhất và thị trường có thể hấp thu kịp. Đồng thời, cần phải khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong CPH như: Tạo ra thua lỗ rồi định giá doanh nghiệp thấp để những người đang điều hành và người nhà dễ dàng thâu tóm; mua doanh nghiệp chỉ vì khu đất vàng mà doanh nghiệp đang nắm giữ chứ không quan tâm phát triển ngành nghề lõi của doanh nghiệp...

Tóm lại, đánh giá, xác định đúng vị trí, vai trò của DNNN là một vấn đề rất quan trọng, là cơ sở để có chiến lược, chính sách, cơ chế phù hợp để nâng cao hiệu quả của DNNN, đóng góp tích cực hơn nữa cho sự phát triển của đất nước.

[còn nữa]

TS NGUYỄN SĨ DŨNG, TS NGUYỄN MINH PHONG, HOÀNG GIA MINH, HỒ QUANG PHƯƠNG

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Tính tất yếu khách quan quy định vai trò, trách nhiệm nhà báo và báo chí cách mạng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

[ĐCSVN] - Càng khó khăn, thử thách, nhà báo càng phải vững bước tiến lên. Đối sách ứng xử, thích nghi với bối cảnh mới là xem xét lại thật kỹ, thật nghiêm túc phương châm: “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào cho hiệu quả.

Báo chí cách mạng Việt Nam nói chung, nhà báo cách mạng nói riêng, có trọng trách to lớn trước quốc dân, đồng bào và toàn thể dân tộc; có vị thế, vai trò ngày càng tăng lên trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt, có ý nghĩa xung kích, bút chiến trong cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ lẽ phải, niềm tin và chân lý. Đây là điểm nhấn mang tầm trí tuệ, tính nhân văn sâu sắc và là yêu cầu khách quan cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thực hiện tốt hơn nữa đối với nhà báo cách mạng, các cấp, các ngành và toàn xã hội trong bối cảnh mới.

Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, làm báo và thúc đẩy sự phát triển của báo chí cách mạng đã khó, các nhà báo, cơ quan quản lý báo chí gặp vô vàn khó khăn, thách thức, nhưng chúng ta đã vượt qua và chiến thắng; chúng ta ngẩng cao đầu, đồng hành cùng dân tộc, góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trước tác động đa chiều của thời cuộc, đặc biệt là tác động của cuộc cách mạng công nghệ thông tin hiện đại, nhà báo, người làm báo và sự nghiệp báo chí cách mạng có nhiều thuận lợi, song gặp không ít khó khăn, thách thức, đáng kể là những tác động từ mặt trái của hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động với nhiều chiêu trò, mô thức, âm mưu, thủ đoạn mới rất tinh vi, thâm độc và xảo quyệt. Chưa bao giờ nhà báo, sự nghiệp báo chí cách mạng và người thụ hưởng các xuất bản phẩm báo chí lại phải đối mặt, đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức trong lựa chọn phương thức đấu tranh để vượt lên chính mình, chiến thắng “thù trong, giặc ngoài”, tự khẳng định bản chất nhân cách để chiến thắng chính mình, bảo vệ lẽ phải, cái đúng, cái tốt trước sự bùng nổ thông tin và tác động đa chiều của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cũng như tác động tiêu cực từ xã hội.

Ảnh minh họa

Chúng ta hiểu rõ rằng, làm báo, hoạt động báo chí cách mạng không chỉ có tâm, có tầm, tuân thủ nghiêm ngặt tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ tờ báo đã xác định theo quan điểm, lập trường của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, lương tâm, danh dự của nghề nghiệp mà còn phải thể hiện cho được tính đảng, tính chính trị - tư tưởng, tính chiến đấu và tính khoa học, cách mạng. Trong bối cảnh mới với nhiều điểm rất khác trước đây, nhà báo khi tác nghiệp, dù dưới bất cứ hình thức và thể loại nào, dù có nhiều thuận lợi về máy móc, phương tiện, trang thiết bị công nghệ thông tin, truyền thông nhưng thử thách lớn nhất lại thuộc về lương tâm, danh dự, trách nhiệm nhà báo đối với cây bút, công bố công trình, tác phẩm, áp lực hành nghề và sự tôn trọng bạn đọc. Viết thật, nhìn thẳng, nói đúng, đem thông điệp hay, truyền tải thông tin mới, cái tốt đến bạn đọc, các đối tượng cần giáo dục, cần tuyên truyền nhưng áp lực tự bảo vệ mình, bảo vệ lẽ phải, sự công tâm, chính trực, sự công bằng trước sự tấn công, lấn át của cái xấu, cái phản nhân văn là không nhỏ, chẳng dễ dàng, thậm chí, có lúc, có thời điểm cái tốt, cái đúng, cái nhân văn đã rõ ràng, nhưng nhà báo vẫn gặp hiểm nguy, sự đe dọa về tính mạng, sự bất an đối với gia đình, người thân. Để cái tốt lên ngôi, việc tử tế được khẳng định, được động viên, cỗ vũ phát huy giá trị, ý nghĩa nhưng cái xấu, các ác luôn rình rập, đe dọa, tấn công; không ít nhà báo tác nghiệp, hành nghề đã và đang sống trong lo toan, trăn trở bởi nhà báo cũng là con người, cũng có gia đình, người thân và phải lo cuộc sống đời thường như bao người khác.

Mỗi nhà báo đều mong muốn hoàn thành nhiệm vụ, có tác phẩm hay, được xã hội thừa nhận, tôn vinh. Vì vậy, họ phải cố gắng lăn lộn trong thực tế, tác nghiệp một cách khẩn trương, hiệu quả để nắm bắt, hiểu rõ “đối tượng tác chiến”, nhu cầu tâm lý, sở thích, trình độ, vốn sống, phong tục tập quán của từng loại đối tượng tuyên truyền; thu thập tài liệu, suy tư, chọn lọc ý tứ để viết bài, nói chuyện, truyền đạt cho được ý tưởng, mục tiêu, yêu cầu, nội dung quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; qua đó, giúp người dân hiểu biết thêm về tình hình, nhiệm vụ, sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật. Nhờ đó, làm cho cái thiện, cái tốt lên ngôi, đơm hoa, kết trái. Dẫu vẫn biết công việc là rất khó khăn, bởi có khó khăn thì mới cần phải làm; cuộc sống, ngành nghề và xã hội đang cần, lương tâm và trách nhiệm nhà báo thôi thúc họ dấn thân, cố gắng nhưng ẩn sâu trong mỗi công trình, đằng sau tác phẩm là sự thẩm định, đánh giá, bình luận của cộng đồng xã hội, cư dân mạng. Ở đó, tốt, xấu, khen, chê có cả. Vì vậy, bài báo đã công bố rồi mà nghiệp vẫn còn đeo bám, nhà báo vẫn còn trăn trở, luôn phải “nhìn trước, ngó sau”, lắng nghe dư luận, lời bình phẩm, sự khen chê, luôn sống trong sự thấp thỏm, lo âu, sự cảnh giác, đề phòng, nhất là những bài viết có tính “nhạy cảm”, tuyên chiến với cái xấu, tiêu cực xã hội, vạch trần quan điểm sai trái, thù địch, phản động dẫu rằng bài viết, sản phẩm công bố đã cõng trên mình các bút danh khác nhau. Mỗi bài viết “trình làng”, đến với bạn đọc, ngoài sự thẩm định, đánh giá của họ, nhà báo còn phải lắng nghe và đề phòng sự phản pháo, đe dọa của các đối tượng xấu, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, kẻ xấu giấu mặt, ẩn nấp trong bóng tối với nhiều chiêu trò tấn công, đe dọa, khủng bố. Sự thật này là khách quan, không dễ dàng đối với nhà báo khi tác nghiệp, hành nghề và cả khi trở về cuộc sống sinh hoạt đời thường.

Danh dự và trách nhiệm nhà báo luôn nhắc nhở rằng, họ từ nhân dân mà ra, là con em của nhân dân, được đào tạo bài bản; đi nhiều, biết nhiều, làm việc và sống vì nghề, vì trách nhiệm trước Đảng, vì nước vì dân, vì lương tâm, danh dự của người cầm bút. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là tiếng gọi từ trái tim đến với trái tim. Nhà báo cách mạng, trong bất luận điều kiện hoàn cảnh nào cũng phải giữ mình, dung dưỡng cho lòng trong, tâm sáng, bút sắc, tuệ anh minh; không cho phép mình nói, viết những điều trái với lương tâm, danh dự, không chiều theo ý muốn, sở thích của một số người, không vì tiền mà bẻ cong ngòi bút, lừa dối lương tâm, làm tổn hại niềm tin, sự yêu mến của nhân dân đối với nhà báo.

Chúng ta hiểu sâu sắc rằng, đối với người dân lao động, chân lý luôn luôn là cụ thể, họ chỉ làm được những việc mà họ hiểu biết và có thể làm được. Vì thế, cách tiếp cận, viết bài, đưa tin, truyền ảnh không đúng, không trúng, không phù hợp, không hấp dẫn đối tượng cần tác động, tuyên truyền thì chẳng những lao động của nhà báo không được khẳng định giá trị, thậm chí là uổng công, vô ích, tốn giấy mực, lãng phí tiền của, thời gian, công sức mà ngược lại còn bị người dân phản ứng, gây tác động tiêu cực trong xã hội, làm nản lòng nhà báo, làm hoen ố nghề nghiệp quang vinh. Điều đó là không thể chấp nhận, lương tâm nhà báo cách mạng không cho phép làm như thế.

Đối với các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động, đấu tranh vạch trần thói hư, tật xấu, âm mưu, thủ đoạn chống phá và tội ác của chúng, đương nhiên là rất cần thiết, rất cấp bách nhưng chúng ta cũng ý thức rằng nhà báo phải đối mặt với một thực tế vô cùng khắc nghiệt: các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động sẽ căm phẫn, tìm cách trả đũa, báo thù, triệt hạ nhà báo. Sự phản pháo, đáp lại thường xuyên bằng sự ném đá, đe dọa nhà báo rất nguy hiểm, thậm chí có cả sự khủng bố tinh thần. Cho nên, dù tiếp cận bằng cách nào, thể hiện quan điểm, lập trường ra sao, yêu cầu khách quan đối với các nhà báo và tất cả những người cầm bút, làm công tác giáo dục, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là luôn kiên định, vững vàng, khó khăn không lùi bước. Càng khó khăn, thử thách, nhà báo càng phải vững bước tiến lên. Đối sách ứng xử, thích nghi với bối cảnh mới là xem xét lại thật kỹ, thật nghiêm túc phương châm: “Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào cho hiệu quả, thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo: mỗi tác phẩm, mỗi công trình của nhà báo phải hướng đến kết quả “được việc, được người, được quan hệ”; bài viết được bạn đọc đón nhận vì nó có ích lợi cho họ; dể hiểu, dễ làm, có sức thuyết phục cao, bảo vệ được lẽ phải, chính nghĩa, động viên người đọc tiến lên; bản thân nhà báo tự bảo vệ được phẩm giá của mình. Đây là một trong những yêu cầu khách quan đối với nhà báo cách mạng hiện nay; là sự chuẩn bị tâm thế “chiến đấu” trong thời bình một cách khôn ngoan, sáng tạo và hiệu quả nhất.

Suy ngẫm và sáng tạo tác phẩm của nhà báo là công việc hằng ngày của nhà báo; suốt đời người, nhà báo cần cầu thị học hỏi nhân dân và đồng nghiệp, để tâm lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân, của đồng nghiệp, lắng nghe thông tin ngược, nhiều chiều; sự phản pháo của kẻ thù để rút kinh nghiệm, có sự điều chỉnh cách tiếp cận, nội dung bài viết cho phù hợp. Nhà báo cũng cần đi nhiều nơi, đến những điểm nóng, có tiếng nói ủng hộ, tuyên truyền cách làm đúng, phổ biến, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những tấm gương người tốt, việc tốt, những việc làm tử tế, đúc kết, khái quát những bài học kinh nghiệm để phổ biến rộng rãi trong xã hội, trong nhân dân để họ biết, cùng học tập, làm theo, gây ảnh hưởng tốt cho cách mạng. Đồng thời, giúp các tổ chức đảng và chính quyền sở tại đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống những biểu hiện tiêu cực xã hội, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với quyền uy và sức mạnh riêng vốn có của nghiệp vụ báo chí cách mạng. Báo chí cùng với các lực lượng công an, chấp pháp vạch mặt cái ác, cái xấu đang ẩn náu, lẩn trốn, có thể gây tác động xấu đến dư luận xã hội, đưa nó ra ánh sáng, góp phần làm lành mạnh cuộc sống; không để xảy ra điểm nóng, bất ổn với sự xuất hiện các tình huống bất ngờ. Ngày nay, làm được như thế danh xưng nhà báo ngời sáng biết bao, nhà báo cách mạng được tôn vinh, trận trọng là nhà báo chiến sĩ - dũng sĩ.

Đó là sự chuẩn bị tâm thế tốt nhất để nhà báo xung kích đi đầu trong cuộc đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, phản động. Đây là những đối tượng “cao thủ, hảo hán”, luôn đòi hỏi nhà báo phải có dũng khí cách mạng, “bút sắc, lòng trong, tâm sáng”, thật sự là chiến sĩ - dũng sĩ, biết cầm bút và biết cầm súng chiến đấu. Cùng với đó, nhà báo phải biết đứng trên vai của “những người khổng lồ”, phải đọc nhiều, hiểu sâu, uyên thâm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước..., có như vậy, nhà báo mới đủ sức vạch trần bản chất sai trái, phản động, “giả nhân giả nghĩa” của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động, hại dân hại nước. Đây cũng là một thực tế khách quan đòi hỏi nhà báo phải được đào tạo cơ bản, chuyên sâu, luôn được bồi dưỡng, tập huấn, bám sát thực tế và được bảo vệ, tôn vinh, có chế độ bảo đảm tốt nhất. Hơn thế nữa, nhà báo cần phải có thời gian dung dưỡng tinh thần, tĩnh tâm nghiên cứu, đọc sách, hăng hái thâm nhập thực tế, tắm mình trong thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này không hề dễ dàng đối với nhà báo trong thời buổi “cơm áo gạo tiền” chẳng “đùa với khách thơ”. Tuy nhiên, một nhà báo có cái tâm, cái đức và ý chí quyết tâm, nghị lực, sự mẫn cán sẽ giúp họ làm được, làm tốt; xã hội sẽ ghi nhận, nhân dân luôn tôn vinh, danh dự nhà báo còn sáng mãi.

So với trước đây, thời nay nhà báo được đào tạo rất cơ bản, chính quy, có học vị, chức danh nên có nhiều nhà báo tài giỏi, văn hay chữ tốt, tay nghề cao, công nghệ giỏi, tác nghiệp nhanh, nhưng cần nghĩ thông, nhìn thoáng hơn rằng “điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước, điều chúng ta chưa biết là cả đại dương”; ta chỉ là bé nhỏ còn nhân dân ta thật là vĩ đại, họ có trăm tay nghìn mắt, luôn có nhiều ý kiến thông minh, sắc sảo có thể giúp các nhà báo hoàn thành tốt hơn công việc của mình, tiến bộ hơn và chính họ bảo vệ nhà báo, bảo vệ lẽ phải, chân lý, công lý và đạo lý. Vì vậy, nhà báo muốn có bài viết hay, công trình tốt, hấp dẫn, thuyết phục, làm “bia đá để đời”, tấm gương có giá trị thì nên vì nghề, vì người mà toàn tâm, toàn ý, gắn bó mật thiết với nhân dân, cùng nhân dân, quan sát và tạo nên các giá trị; khi cần thiết thì hỏi nhân dân nên ứng xử như thế nào, viết về cái gì là cần thiết, có ích lợi, nhân dân sẽ bày cách, chỉ cho nhà báo những điều cần viết. Muốn xem chất lượng bài viết của mình có tốt hay không, có phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân hay không, nhà báo hãy xem số lượng “like”, bình luận, chia sẻ bài viết của mình trên mạng là biết rõ sức sống, sự lan tỏa, tầm ảnh hưởng của bài báo, mức độ ghi nhận công sức, kết qua lao động, từ đó mà cân chỉnh, uốn nắn cách viết, bài viết cho phù hợp hơn, chất lượng tốt hơn.

Sự tham gia của quần chúng nhân dân, của bạn đọc, người xem truyền hình, đọc tin và ý kiến của họ giúp báo chí cách mạng luôn đổi mới, có sức sống sáng tạo, thực sự trở thành diễn đàn sinh hoạt dân chủ, thu hút sự quan tâm chăm lo của toàn xã hội, hiệu quả “xây” và “chống” tốt hơn. Nhờ đó, báo chí cách mạng ngày càng thân thiết, gắn bó máu thịt với nhân dân, có ích lợi cho cách mạng, trở thành món ăn tinh thần nuôi dưỡng, bồi bổ và làm phong phú hơn, giầu có hơn đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân; góp phần cùng “binh chủng tư tưởng - văn hoá” của Đảng, làm tốt vai trò, chức năng của mình: chủ động, tích cực tham gia cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Qua đó, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, sớm đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao.

Rõ ràng là, hoạt động báo chí không phải là mục đích tự thân của riêng nhà báo mà là yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, vì mục tiêu đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý, bảo vệ nền độc lập dân tộc, cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trước đây cũng như hiện nay, hoạt động báo chí và việc làm của nhà báo cách mạng là một trong những phương thức hiệu quả nhất để truyền bá sâu rộng sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong quần chúng nhân dân; nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết cho nhân dân; thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mỗi nhà báo cần phải quán triệt sâu sắc và quyết tâm thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của báo chí cách mạng; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới rất phức tạp hiện nay.

Tính tất yếu khách quan của báo chí cách mạng cần được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, nhà báo và báo chí cách mạng Việt Nam đều phải phản ánh đúng sự thật, không được để lẽ phải bị xuyên tạc, chân lý bị bẻ cong; nghĩa là sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội, trong thế giới khách quan như thế nào thì phản ánh đúng như nó vốn có; tuyệt đối không được thêu dệt, nói sai sự thật; “không vì yêu mà nói tốt, ghét thì nói xấu”, không được phép “thích thì tô hồng, không thích thì bôi đen”. Đó là phương sách tốt nhất, hữu dụng nhất để không mắc sai lầm, không ngả nghiêng, dao động, bị mua chuộc, bị cám dỗ; không đi theo vết xe đổ của những kẻ cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ, có quan điểm sai trái, lệch lạc, đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đó là điều chắc chắn nhất để nhà báo đứng vững trên trận tuyến đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chân lý, đạo lý và lẽ phải.

Điều tối kỵ đối với nhà báo cách mạng là nói, viết, phản ánh sai sự thật, không đúng bản chất khoa học, cách mạng, giá trị và ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phòng, tránh sai lầm ấy và luôn nói đúng, viết đúng, phản ánh đúng sự thật, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chân lý, lẽ phải thì nhất thiết nhà báo phải “xuất phát từ hiện thực khách quan; tôn trọng quy luật khách quan”; phải đứng vững trên nền móng thực tiễn cuộc sống, có phương pháp biện chứng khoa học để thu lượm tài liệu, phân tích, gạn lọc, kiểm tra thông tin thật nghiêm túc, tỷ mỉ sao cho thật chắc chắn, chính xác thì mới phát tin, truyền tin. Nếu nhà báo chưa chuẩn bị kỹ tâm thế thì chưa “ra trận”, chưa điều tra, chưa nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa biết rõ tường tận bản chất sự việc thì không nói, không viết bài và công bố tác phẩm.

Giá trị thuyết phục, sự hấp dẫn của bài nói, bài viết trước hết thể hiện ở việc viết và nói, phản ánh đúng bản chất sự vật, lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không tô hồng, bôi đen, không “thêu dệt, bịa ra” những điều phi lý, huyễn hoặc, phi thực tế. Về điều này, nhà báo cần suy ngẫm ý tứ sâu sắc lời răn dạy của ông cha ta: “lời nói gói vàng”, “lời nói đọi máu”. Thực tế chỉ ra rằng, lời nói, bài viết, bản tin, phản ánh sai sự thật khi đã tung lên mặt báo thì sẽ không thu lại được và nó sẽ gây tác hại rất lớn đối với xã hội, thậm chí có thể giết chết một con người, làm tan rã một tập thể, gây rối loạn một gia đình, dòng họ; xung đột xã hội và có thể xảy ra xung đột, chiến tranh, v.v. và như thế, vô tình, nhà báo đã trượt sang phía đối phương, trở thành đối tượng bị các thế lực thù địch lợi dụng.

Trau chuốt, rèn rũa ngòi bút để viết ngắn gọn, rõ ràng, thiết thực, đấu tranh chống quan điểm sai trái hiệu quả là một yêu cầu khách quan, vừa là tiêu chí đánh giá phẩm chất, năng lực, tài, đức của nhà báo. Chúng ta đều rõ rằng, nói, viết ngắn gọn không có nghĩa là cộc lốc, cụt ý, thô thiển mà là ý tứ phải rõ ràng, mạch lạc, cô đọng, không tràn lan; phải có đầu, có đuôi; đúng và đủ nội dung, chắc chắn, nhiều hàm ý sâu sắc, không thừa, không thiếu chữ, phù hợp đối tượng người tiếp nhận, thụ hưởng, tức là mọi vấn đề trình bầy phải có luận đề, luận điểm, luận cứ và luận chứng rõ ràng. Vì thế, trước khi nói, viết về một vấn đề nào đó, đặc biệt là đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhà báo phải am hiểu tường tận nội dung và làm chủ vấn đề cần trình bày; thận trọng sắp xếp luận điểm, sự kiện, con số sao cho hợp lý, thật lôgíc, thống nhất, có sự thuyết phục. Muốn vậy, nhà báo ngoài việc am hiểu sâu sắc nội dung vấn đề cần viết, cần nói thì nhất thiết phải có đề cương rõ ràng, ý tứ phải mạch lạc, tài liệu phải đầy đủ, tâm thế phải sáng trong, vững vàng. Đó là cách tốt nhất để phòng tránh “bệnh” viết dài, khoe chữ, ba hoa, sáo rỗng; nội dung “nhạt thếch”, tránh nguy cơ chệch hướng, lạc đường.

Nói và viết trong sáng, giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu là một trong những đặc trưng nổi bật của phong cách báo chí cách mạng mà mỗi nhà báo cần rèn dũa, chiếm lĩnh. Muốn bài nói, bài viết, bài đấu tranh có sức thuyết phục, lan tỏa, đi vào lòng người, được nhân dân đón nhận, nhà báo cần quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo và phương hướng hành động của báo chí cách mạng, nhất là trong bối cảnh tràn ngập thông tin mạng hiện nay.

Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ thông tin, báo chí cách mạng nước ta đang đứng trước cơ hội phát triển mới, nhiều tờ báo đa phương tiện, đa tiện ích, luôn là kênh thông tin nhanh, nhạy, tác động sâu rộng và thường xuyên vào ý thức con người, góp phần quan trọng vào việc triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận xã hội, là “vũ khí tinh thần sắc bén”, đã và đang phát huy tốt vai trò, tác dụng trong phát triển kinh tế - xã hội; đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”; góp phần giữ gìn, ổn định chính trị, tật tự an toàn xã hội; đảm bảo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế. Với tinh thần đổi mới để phát triển sáng tạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, báo chí cách mạng Việt Nam đang cùng “binh chủng” văn hóa - tư tưởng của Đảng phát huy truyền thống tốt đẹp của mình, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; luôn bảo đảm tính đảng, tính chính trị, tính chiến đấu, tính nhân dân, tính chân thực, đa dạng và hấp dẫn của báo chí cách mạng Việt Nam.

Để thực hiện tốt vai trò xung kích đi đầu trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhà báo cần phải thấm nhuần sâu sắc sự cần thiết phải bảo vệ những nội dung nào trong nền tảng tư tưởng của Đảng; có bút pháp, hình thức gì để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiệu quả.

Trước hết, nhà báo cần hiểu rõ nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là: [1] Bảo vệ phép biện chứng duy vật mác xít, tập trung bảo vệ hai nguyên lý, ba quy luật, sáu cặp phạm trù…; [2] Bảo vệ giá trị khoa học và cách mạng của quan niệm duy vật về lịch sử. Đó là học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về nhà nước và cách mạng xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, v.v.; [3] Bảo vệ học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của C. Mác; [4] Bảo vệ học thuyết nhân văn vì sự phát triển toàn diện của con người và xã hội loài người. Từ các nội dung căn cốt trên, nhà báo cần khẳng định cho được chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, lực lượng, biện pháp đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột bất công; giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc…

Thứ hai, nhà báo cần nhận thức đầy đủ, chính xác những giá trị cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là: [1] Bảo vệ tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; [2] Về sức mạnh của Nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; [3] Về quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; [4] Về phát triển kinh tế và văn hóa; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân; [5] Về đạo đức cách mạng; [6] Về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; [7] Về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng; [8] Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên là “người đầy tớ” thật trung thành của nhân dân, v.v..

Đó là hai nội dung “xây” và “chống” mà Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới đã chỉ ra. Trong đó, cần chú ý: Khi bảo vệ và đấu tranh phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả.

Trong khi bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà báo phải tỉnh táo nhận diện chính xác cấp độ, tác hại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động, những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta để viết bài đấu tranh cho thấu tình đạt lý. Đồng thời, phải mạnh dạn đề xuất, gợi ý bổ sung, phát triển những quan điểm mới của học thuyết này, làm cho nó phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc tham mưu, tư vấn về việc bổ sung ấy là rất cần thiết; góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng thêm sức sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới trong bối cảnh mới hiện nay./.

-------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS, TS. Đào Duy Quát, GS, TS. Đỗ Quang Hưng, PGS, TS. Vũ Duy Thông: Tổng quan về lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam [1925-2010], Nxb CTQG, Hà Nội, 2010.

2. GS,TS. Tạ Ngọc Tấn: Báo chí, truyền thông hiện đại: Thực tiễn - Vấn đề - Nhận định, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2020.

3. PGS, TS, Nguyễn Thế Kỷ: Báo chí, truyền thông Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2020.

Thiếu tướng, PGS, TS, NGND. Nguyễn Bá Dương

Video liên quan

Chủ Đề