Ý nào không phản ánh dựng mục đích của nhà nước khi dựng bia tiến sĩ trong Văn Miếu

Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long. Trước đây, khu vực này thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc, thuộc làng Thịnh Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. Hiện nay, di tích thuộc địa bàn 2 quận Đống Đa và Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là một trong những di tích có giá trị đặc biệt, phản ánh hết sức sinh động truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, coi trọng hiền tài của dân tộc ta trong lịch sử ngàn năm văn hiến, trong đó, các bia tiến sĩ hiện còn tại di tích là một di sản văn hóa nổi tiếng và là niềm tự hào của dân tộc.

Năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, vẽ tượng thất thập nhị hiền, bốn mùa tế tự, cho Hoàng thái tử đến học. Năm 1076, lập Quốc Tử Giám. Năm 1253 [đời Trần] đổi tên Quốc Tử Giám thành Quốc Tử viện. Đến đời Lê [năm 1483], đổi tên Quốc Tử viện thành Thái Học đường. Thời Nguyễn, khu vực này được đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Như vậy, trong lịch sử, di tích là nơi thờ Thánh Nho [Khổng Tử], Chu Công, Tứ phối, thất thập nhị hiền, Chu Văn An và là trường Quốc học đào tạo trí thức Nho học của nước ta từ thời Lý đến thời Lê.

Vua Lê Thánh Tông [1460 - 1497] là người đề xướng dựng bia đề danh tiến sĩ để tôn vinh các trí thức Nho học đỗ đạt. Đến nay, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn lưu giữ được 82 bia ghi rõ họ tên, quê quán của 1.304 nhà trí thức khoa bảng [85 trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa; 283 hoàng giáp và 939 tiến sĩ]. Trong số văn bia này, bia tiến sĩ có niên đại sớm nhất, được dựng năm 1484, đời Lê Thánh Tông, ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442; bia tiến sĩ có niên đại muộn nhất, được dựng vào năm 1780, ghi về khoa thi năm 1779.

Từ lâu, hệ thống bia đề danh tiến sĩ trong Khu di tích đã được coi là một trong những di sản văn hóa vô cùng giá trị của ông cha ta để lại. Giá trị ấy được thể hiện qua một số điểm sau:

Thứ nhất, đây là những tư liệu lịch sử xác thực, ghi lại kết quả các kỳ thi tiến sĩ từ năm 1442 đến năm 1779, thuộc thời Lê sơ, Mạc và Lê Trung hưng, [từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII]. Mỗi tấm bia dựng cho một khoa thi. Những bài ký trên bia là nguồn sử liệu phong phú về một khoa thi. 82 bia này là nguồn sử liệu quí giá, phản ánh về lịch sử giáo dục Việt Nam trong suốt 300 năm.

Thứ hai, trên mỗi tấm bia đều có các bài văn thể hiện quan điểm đào tạo nhân tài của các triều đại phong kiến Việt Nam. Nhiều triết lý về dựng nước, giữ nước, bảo tồn văn hóa, phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài của các triều đại… đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Chẳng hạn, việc khẳng định: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp" được khắc trên bia đề danh tiến sĩ năm 1484 [ghi lại khoa thi năm 1442] đến nay vẫn được coi như một tư tưởng lớn về việc đánh giá và sử dụng nhân tài của đất nước.

Thứ ba, bia đề danh tiến sĩ là nguồn sử liệu quí giá, giúp cho việc nghiên cứu  về tiểu sử, hành trang của nhiều danh nhân Việt Nam, như Nguyễn Trãi - người được UNESCO công nhận là Danh nhân Văn hóa thế giới, Lê Quí Đôn, Lương Thế Vinh.... Hơn nữa, trong số 1304 tiến sĩ được khắc tên trên 82 bia, có tới 225 vị từng đi sứ Trung Quốc, như Nguyễn Như Đổ, Lê Quý Đôn… Điều này đã thể hiện giá trị độc đáo và khẳng định ý nghĩa quốc tế của bia đề danh tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám [Hà Nội].

Thứ tư, chữ Hán khắc trên các bia, có niên đại rất cụ thể, phản ánh về thư pháp [cách viết chữ] của các thời liên quan. Vì vậy, có thể coi đây là căn cứ quan trọng để nhận diện tiến trình phát triển thư pháp chữ Hán của người Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII.

Thứ năm, về giá trị nghệ thuật, mỗi tấm bia là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, do các nghệ nhân hàng đầu tạo tác. Do đó, 82 tấm bia là 82 phong cách nghệ thuật khác nhau, phản ánh cụ thể và sinh động nghệ thuật tạo tác bia đá của tiền nhân.

82 bia đá tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám [Hà Nội] là những tấm bia đề danh tiến sĩ duy nhất trên thế giới có bài ký [văn bia] không chỉ lưu danh những tiến sĩ đã thi đỗ trong các kỳ thi trải dài suốt gần 300 năm [từ 1442 đến 1779], mà còn ghi lại triết lý của các triều đại về vấn đề giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài, do đó có tác động to lớn đối với xã hội đương thời và hậu thế. Ngoài ý nghĩa văn hóa, giáo dục, mỗi tấm bia tiến sĩ còn mang theo những thông tin về các khoa thi Hội, như tên các quan trông coi thi, chấm thi, ngày thi, ngày yết bảng xướng danh những người thi đỗ...

Qua phong cách nghệ thuật và nội dung phản ánh, về cơ bản, có thể chia 82 bia này thành 3 loại: loại I gồm 14 bia dựng từ năm 1484 đến năm 1536, loại II gồm 25 bia dựng vào năm 1653, loại III gồm 43 bia dựng từ năm 1717 đến năm 1780. Trong số trong số 82 bia này, các nhà mỹ thuật đánh giá bia loại II là những hiện vật quý giá nhất về mặt nghệ thuật trang trí [đề tài trang trí trên trán và diềm bia phong phú và tinh tế, đường nét chạm đục hoa văn, linh thú, mây trời đều rất sinh động, tươi vui, hóm hỉnh. Rùa đế của bia loại II được tạc đơn sơ nhưng khỏe mạnh, mang cái đẹp của những phác thảo, tượng trưng và gợi cảm...]

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ đặc sắc, Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO  đã ghi danh 82 bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê sơ - Mạc - Lê Trung Hưng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào Danh mục Ký ức thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Hệ tư tưởng nào chiếm địa vị độc tôn trong xã hội nước ta thời Lê sơ?

Tác phẩm nào sau đây là thành tựu toán học tiêu biểu thời Lê sơ?

Chế độ khoa cử thời Lê sơ phát triển thịnh nhất dưới triều vua nào?

Nhân vật lịch sử nào được mệnh danh là Trạng Lường?

Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 103 SGK Lịch sử 10

Đề bài

Việc dựng bia Tiến sĩ có tác dụng gì?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk Lịch sử 10 trang 102 để suy luận trả lời.

Lời giải chi tiết

Việc dựng bia Tiến sĩ có tác dụng:

- Ghi danh những người có trí thức tài giỏi đỗ đạt trong các kì thi.

- Cổ vũ, khuyến khích hoạt động học tập, thi cử trong nhân dân.

Loigiaihay.com

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 10 - Xem ngay

Câu 1. Ý nào không phản ánh đúng nguyên nhân xâm lược Đại Việt của nhà Tống vào năm 1076?

A. Đại Việt tập kích cứ điểm Ung Châu, Khâm Châu của nhà Tống.

B. Thỏa mãn tham vọng bành trướng lãnh thổ xuống phía nam.

C. Tăng vị thế của nhà Tống khiến hai nước Liêu, Hạ phải kiêng nể.

D. Đánh thắng Đại Việt sẽ góp phần dẹp yên mâu thuẫn trong nội bộ nước Tống.

Câu 2. Ý nào không phản ánh đúng tinh thần chủ động đối phó với quân Tống của quân dân nhà Lý.

A. Tăng cường lực lượng quân sự, tích trữ lương thảo, khí giới.

B. Xây dựng phòng tuyến chống giặc trên sông Như Nguyệt.

C. Đem quân đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc.

D. Phòng ngự chiến lược bằng kế sách “vườn không nhà trống”

Câu 3. Ý nào không phản ánh đúng mục đích của Đại Việt khi mở cuộc tập kích lên đất Tống vào năm 1075?

A. Phá tan các cứ điểm mà nhà Tống chuẩn bị cho cuộc xâm lược Đại Việt.

B. Chiếm các cứ điểm quan trọng làm bàn đạp để xâm lược nhà Tống.

C. Chủ động tấn công để chậm thế mạnh của giặc.

D. Chứng tỏ sức mạnh của Đại Việt làm lung lay ý chí chiến đấu của quân Tống.

Câu 4. So với các cuộc kháng chiến chống xâm lược thời Lý - Trần, bối cảnh lịch sử dẫn đến sự bùng nổ của khởi nghĩa Lam Sơn có điểm gì khác biệt?

A. Diễn ra trong bối cảnh Đại Việt đã bị nhà Minh đô hộ.

B. Diễn ra khi Đại Việt là quốc gia độc lập, có chủ quyền.

C. Diễn ra khi nhà Minh lâm vào khủng hoảng, suy yếu.

D. Diễn ra khi nhà Hồ lâm vào khủng hoảng, suy yếu.

Câu 5. Điểm tương đồng trong đường lối chỉ đạo chiến đấu giữa cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý và khởi nghĩa Lam Sơn là gì ?

A. Kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.

B. Chủ động tấn công để chặn thế mạnh của giặc.

C. Phòng ngự tích cực thông qua chiến thuật "vườn không nhà trống".

D. Thực hiện "vườn không nhà trống" và tổ chức phản công khi có thời cơ.

Câu 6. Ý nào không phản ánh đúng như hạn chế của nền giáo dục Nho học?

A. Không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế

B. Lối học "tầm chương trích cú", học thuộc lòng không phát huy được tính sáng tạo của người học.

C. Nội dung học tập thiên về khoa học - kỹ thuật, ít chú ý đến kiến thức khoa học xã hội.

D. Mang nặng tính "chủ nghĩa hoài cổ" bảo thủ.

Câu 7. Ý nào không phản ánh đúng mục đích của nhà nước khi dựng bia Tiến sĩ trong Văn Miếu

A. Vinh danh những người tài giỏi, đỗ đạt cao trong các kì thi

B. Khuyến khích cổ vũ tinh thần học tập của nhân dân

C. Răn đe quan lại phải có trách nhiệm với nhân dân, với nước để xứng đáng với bảng vàng.

D. Tạo nên những tác phẩm điêu khắc độc đáo, góp phần làm phong phú văn hóa Việt.

Câu 8. Ý nào không đúng khi nhận xét về tác động tích cực của giáo dục Nho học tới đời sống văn hóa - xã hội của Đại Việt trong các thế kỉ X - XV?

A. Mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

B. Góp phần thúc đẩy văn hóa Đại Việt phát triển.

C. Góp phần hình thành nhiều giá trị văn học, truyền thống đạo đức tốt đẹp.

D. Tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế - khoa học - kỹ thuật

Câu 9. Ý nào không phản ánh đúng nguyên nhân dân tới sự suy giảm vị thế của Phật giáo ở Đại Việt từ cuối thế kỉ XIV?

A. Nhà nước phong kiến hạn chế sự phát triển của Phật giáo.

B. Giáo lí Phật giáo không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Đại Việt.

C. Nhà nước đề cao Nho giáo, hạn chế sự phát triển của các tôn giáo khác.

D. Giáo lí Phật giáo không phù hợp với mục tiêu duy trì và bảo vệ tôn ti trật tự xã hội của nhà nước phong kiến.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề