Ý nghĩa Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2 9

Tại Sài Gòn, ngày 25/8, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ chính quyền phát xít Nhật.  Sau đó, 13 tỉnh Nam Bộ khởi nghĩa thắng lợi, bao gồm: Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Châu Đốc, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Sa Đéc, Kon Tum, Sơn La, Cần Thơ, Rạch Giá, Đồng Nai Thượng, Hà Tiên.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản ”Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam].

Thời gian đã qua đi hơn 2/3 thế kỷ, nhiều chi tiết nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Người thể hiện trong Tuyên ngôn.

Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.

Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.

Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu, làm rõ, nhưng hiện vẫn còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi với dụng ý xấu: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp?

Điều này cần phải hiểu và lý giải rõ.

Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã giành được. Đây là những thành quả văn hoá của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người, trong đó đã khẳng đinh những quyền cơ bản của con người. Đó là "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” … “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp. Dẫn dắt từ sự kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam.

Hai là, trên nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương cao.

Ba là, đi sâu nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.

Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay.

Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.

Hơn 70 năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Với tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt hơn 70 năm qua. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức.

Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập ,chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

BBT [tổng hợp]

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa [nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam].

Với thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã viết “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc”.

Tại quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân và thế giới “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

75 năm qua, phát huy các bài học của Cách mạng tháng Tám và tinh thần Quốc khánh 2/9 bất diệt, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế./.

Cách đây 75 năm, trong dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt Nam, một sự kiện lịch sử có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng đó là thắng lợi của của Cách mạng Tháng 8/1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [2/9/1945]. Đây là mốc son hào hùng đánh dấu cho sự ra đời của một nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam Á; đưa địa vị toàn thể nhân dân Việt Nam từ nô lệ trở thành người làm chủ thực sự của đất nước. Sức sống, tinh thần và những giá trị của thắng lợi Cách mạng Tháng 8/1945 và Quốc khánh 2/9 vẫn còn in đậm trong mỗi bước đi, mỗi chặng đường phát triển của đất nước và trở thành biểu tượng của khát vọng độc lập, tự do, hòa bình. Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược Việt Nam năm 1858, phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, không cam chịu làm nô lệ, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống lại sự bóc lột của thực dân Pháp và các tầng lớp tay sai. Đó cũng chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, hòa bình cho dân tộc.Trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời [3/2/1930] đã kịp thời chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều thử thách, khó khăn để đạt được những thắng lợi to lớn. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng chính­­ là cội nguồn hun đúc lòng tin và chí khí cho toàn dân đi theo con đường cách mạng.

Thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945 và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [2/9/1945]

Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8/1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đó không phải sự ngẫu nhiên mà đó là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh với khát vọng độc lập, tự do và hòa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 1/9/1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng. Trong thời điểm này, chế độ phong kiến Việt Nam đang rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc và mất dần vị thế lịch sử vốn có. Mặc dù không thực hiện được mục đích “đánh nhanh, thắng nhanh” như mục đích đề ra, nhưng đến năm Giáp Thân – 1884 thực dân Pháp cũng đã đạt được mục tiêu hoàn thành quá trình xâm lược Việt Nam [Hòa ước Patenôtre]. Tuy nhiên, chính sách cai trị nô dịch, hà khắc và tàn khốc của thực Pháp không thể nào dập tắt được ngọn lửa đấu tranh và tinh thần yêu nước đang bùng cháy trong mỗi người dân lúc bấy giờ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân dưới phong trào Cần Vương và phong trào theo khuynh hướng tư sản. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tất cả các phong trào ấy đều bị thất bại, bị “dìm trong biển máu”. Thực dân Pháp gây ra càng nhiều hy sinh, tổn thất thì khát vọng độc lập, tự do và hòa bình của nhân dân Việt Nam ngày càng cháy bỏng, nhất là trong bối cảnh thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917 đã cho thấy sự thắng lợi của cách mạng vô sản ở hiện thực.

Ánh 1: Thực dân Pháp nổ súng tấn công Sơn Trà – Đà Nẵng, mở đầu quá trình xâm lược Việt Nam.

Năm 1920, sau nhiều năm làm việc và hoạt động ở các qua quốc gia và châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản. Đồng thời Người cũng rút ra được chân lý của thời đại: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.33].Trước yêu cầu bức thiết của phong trào cách mạng ở Việt Nam, với sự tích cực và chủ động của Nguyễn Ái Quốc, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 tại Hương Cảng – Trung Quốc, Hội nghị thành lập Đảng đã quyết định thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam [tháng 10/1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương]. Đây chính là bước ngoặt quan trọng trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do. Cũng từ đây cách mạng của Việt Nam đã được đặt vào quỹ đạo chung của cách cuộc cách mạng vô sản trên thế giới.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã vạch ra con đường cách mạng tất yếu lúc bấy giờ: “Chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.1], cũng từ đây nhiệm vụ độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu đối với cách mạng Việt Nam.

Với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo: kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã tập hợp và lãnh đạo đại bộ phận quần chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh trong phong trào cách mạng 1930 – 1931, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 và phong trào cách mạng 1939 – 1945 trong đó trực tiếp, mạnh mẽ nhất là Cao trào kháng Nhật giành chính quyền. Mục tiêu cao nhất của Đảng trong giai đoạn này là: Tập hợp, đoàn kết tất cả các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, nhằm cùng nhau hướng tới mục tiêu giải phóng cho được dân tộc.

Tháng 8/1945 phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, quân đội, chính quyền và tay sai rơi vào tình trạng khủng hoảng và hoang mang cực độ. Toàn thể dân tộc Việt Nam lúc này chỉ còn một con đường duy nhất là đứng lên chứ không còn con đường nào khác. Nhận định “cơ hội ngàn năm có một” đã tới Ban thường vụ Trung ương Đảng đã phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước với quyết tâm sắt đá: “Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc”[Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.196].

Đáp lại lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, với khí thế bão táp cách mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 14 – 18/9 cuộc Tổng khởi nghĩa đã nổ ra thắng lợi hoàn toàn trong cả nước. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân Việt Nam được bước lên vũ đài chính trị, trở thành người làm chủ thật sự của đất nước.

Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, trong thời khắc thiêng liêng của lịch sử dân tộc, trước quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”– đánh dấu cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây chính là thành quả tất yếu đối với một dân tộc vốn yêu chuộng hòa bình. Từ trong sâu thẳm lý trí của mỗi người dân, một khát vọng độc lập, tự do đã được hun đúc cùng với chiều dài của lịch sử dân tộc, độ dài của lịch sử càng lớn thì tinh thần và khát vọng ấy càng mãnh liệt. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc ấy phải được độc lập” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.557]

Ảnh 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2/9/1945.

Những giá trị nền tảng và bài học từ thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945 và Quốc khánh 2/9/1945

Trong tiến trình lịch sử mấy ngàn năm, tính từ thế kỷ thứ III TCN đến thế kỷ XX dân tộc Việt Nam đã trải qua 17 cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại bang. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, những thắng lợi chống ngoại xâm đều có những ý nghĩa khác nhau, nhưng mẫu số chung của tất thảy đó lại chính là sự đoàn kết các lực lượng dựa trên nền tảng tinh thần và truyền thống yêu nước của dân tộc. Có được thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8/1945 chính là nhờ vào sự bồi đắpnhững giá trị của dân tộc trong quá khứ và đã được hiện thực hóa trong thời đại Hồ Chí Minh rực lửa anh hùng cách mạng.

Theo đó, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 để lại những di sản về lý luận, bài học vô cùng quý giá về phương pháp luận cần vận dụng, phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Đó là bài học trong mọi hoàn cảnh, phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới. Là một trong những cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, giải quyết một cách đúng đắn và xác đáng mối quan hệ chủ quyền quốc gia và lợi ích của nhân dân, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, giữa mục tiêu trước mắt và định hướng phát triển lâu dài, phù hợp với dòng chảy của lịch sử nhân loại và đặc điểm Việt Nam.

Đó là bài học phải củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập” [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.461].Tất cả các lực lượng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất do liên minh công, nông, trí thức làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tiếp theo, là bài học phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường kết tinh trong luận điểm nổi tiếng của lãnh tụ Hồ Chí Minh “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” được áp dụng và thực thi triệt để trong Cách mạng tháng Tám.

Cách mạng muốn thành công thì không chỉ có vai trò lãnh đạo của Đảng, một yếu tố đảm bảo xuyên suốt cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng được rút ra từ cách mạng tháng 8/1945 đó là: biết phát huy và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh quần chúng nhân dân chính là chủ thể của các cuộc cách mạng, chủ thể ấy mạnh hay yếu là do lực lượng lãnh đạo có tin tưởng và biết phát huy hay không. Chính vì thế phải tập trung vào việc xây dựng lực lượng lãnh đạo cách mạng phải thật sự vững mạnh để thuyết phục và lãnh đạo cho được dân chúng.

Trong chiều sâu lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, khát vọng độc lập, tự do và hòa bình đã nhiều lần được nhắc đến như một ý chí bất khuất trường tồn với thời gian. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như lời khẳng định đanh thép đối với những ý định xâm lược của thế lực ngoại bang, đây cũng là bài học kinh nghiệm chưa bao giờ cũ đối với đất nước khi trải qua những thời kỳ khó khăn sau này.

Bên cạnh đó là bài học về phát huy bản chất và những giá trị của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều này đã được thể hiện qua những việc làm khẩn trương ngay sau khi nhà nước mới ra đời: củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng của xã hội mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đạp tan mọi âm mưu xuyên tạc và hành động của các thế lực thù địch đang nuôi dưỡng mưu đồ can thiệp vào nước ta.

          Hào khí của Cách mạng Tháng 8/1945 và Quốc khánh 2/9 chính là cội nguồn sức mạnh để cả dân tộc phát huy tinh thần chủ động, tự lực, tự cường. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức đặt ra, nhưng sự đoàn kết giữa Đảng – Nhân dân chính là mạch nguồn sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Nguyễn Ngọc Phương, Phòng Hành chính – Tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề