Các yếu tố quyết định sinh khả dụng của thuốc

Thay đổi cấu trúc làm thay đổi dược lực học của thuốc

Như ta đã biết, thuốc muốn có tác dụng, phải gắn được vào receptor [ái lực với receptor] và sau đó là hoạt hóa được receptor đó [có hiệu lực hay tác dụng dược lý]. Receptor mang tính đặ c hiệu cho nên thuốc cũng phải có cấu trúc đặc hiệu. Receptor được ví như ổ khóa và thuốc là chìa khóa. Một sự thay đổi nhỏ về cấu trúc hóa học [hình dáng phân tử của thuốc] cũng có thể gây ra những thay đổi lớn về tác dụng.

Như vậy việc tổng hợp các thuốc mới thường nhằm:

Làm tăng tác dụng điều trị và giảm tác dụng không mong muốn. Khi thêm F vào vị trí 9 và CH 3 vào vị trí 16 của corticoid [hormon vỏ thượng thận], ta được betametason có tác dụng chống viêm gấp 25 lần và không có tác dụng giữ Na+ như corticoid, tránh phải ăn nhạt.

Làm thay đổi tác dụng dược lý: thay đổi cấu trúc của isoniazid [thuốc chống lao], ta được iproniazid, có tác dụng chống trầm cảm, do gắn vào receptor hoàn toàn khác. Kháng histamin H1 có công thức gần giống với histamin, tranh chấp với histamin tại receptor H 1.

Các đồng phân quang học hoặc đồng phân hình học của thuốc cũng làm thay đổi cường độ tác dụng, hoặc làm thay đổi hoàn toàn tác dụng của thuốc.

l. isoprenalin có tác dụng kích thích receptor β adrenergic 500 lần mạnh hơn d. isoprenalin.

l. quinin là thuốc chữa sốt rét, d. quinin [quinidin] là thuốc chữa loạn nhịp tim.

Càng ngày người ta càng hiểu rõ được siêu cấu trúc của receptor và sản xuất các thuốc rất đặc hiệu, gắn được vào dưới typ của receptor: receptor adrenergic α1, α2, β1, β2, β 3, receptor cholinergic M1, M2, M3, receptor dopaminergic D1, D2, ... D7.

Thay đổi cấu trúc thuốc, làm thay đổi dược động học của thuốc

Khi cấu trúc của thuốc thay đổi, làm tính chất lý hóa của thuốc thay đổi, ảnh hưởng đến sự hòa tan của thuốc trong nước hoặc trong lipid, ảnh hưởng đến sự gắn thuốc vào protein, độ ion hóa của thuốc và tính vững bền của thuốc. Một số ví dụ:

Dopamin không qua được hàng rào máu não, nhưng l. dopamin [Levo dopa], chất tiền thân của dopamin thì qua được.

Estradiol thiên nhiên không uống được vì bị chuyển hóa mạnh ở gan. dẫn xuất ethinyl estradiol [-C CH gắn ở vị trí 17] rất ít bị chuyển hóa nên uống được.

Tolbutamid bị microsom gan oxy hóa gốc CH 3 ở vị trí para, có t/2 huyết tương là 4- 8 h. Thay gốc CH3 bằng Cl [Clorpropamid] sẽ rất khó bị chuyển hóa, làm t/2 của thuốc kéo dài tới 35 h.

Các thiobarbituric ít bị phân ly hơn barbituric ở pH của ống thận nên bị thải trừ chậm hơn.

Qua đây ta có thể nhận thấy rằng, khi thuốc gắn vào receptor để gây hiệu lực, không phải toàn bộ phân tử thuốc mà chỉ có những nhóm chức phận   gắn vào receptor. Khi thay đổi cấu trúc của nhóm hoặc vùng chức phận, dược lực học của thuốc sẽ thay đổi. Còn khi thay đổi cấu trúc ở ngoài vùng chức phận, có thể thay đổi dược động học của thuốc.

Dạng thuốc

Dạng thuốc là hình thức trình bày đặc biệt của dược chất để đưa dược chất vào cơ thể. Dạng thuốc phải được bào chế sao cho tiện bảo quản, vận chuyển, sử dụng và phát huy tối đa hiệu  lực chữa bệnh của thuốc.

Có thể tóm tắt quá trình hình thành và phát huy tác dụng của một dạng thuốc trong cơ thể như sau:

Qua sơ đồ, ta thấy từ 1 dược chất, các nhà bào chế có thể đưa ra thị trường nhiều loại biệt dược [dạng thuốc] khác nhau, có sinh khả dụng khác nhau do đó có ảnh hưởng khác nhau tới hiệu quả điều trị.

Trạng thái của dược chất

Độ tán nhỏ: thuốc càng mịn, diện tiếp xúc càng tăng, hấp thu thuốc càng nhanh.

Dạng vô định hình và dạng tinh thể: thuốc rắn ở dạng vô định hình dễ tan, dễ hấp thu.

Tá dược:

Tá dược không phải chỉ là "chất độn" để bao gói thuốc mà còn ảnh hưởng đến độ hòa tan, khuếch tán...của thuốc. Khi thay calci sulfat [thạch cao, tá dược cổ điển] bằng lactose để dập viên diphenylhydantoin, đã gây hàng loạt ngộ độc diphenylhydantoin do lượng thuốc được hấp thu nhiều hơn [Úc, 1968]. Nguyên nhân là tá dược calci sulfat chỉ đóng vai trò một khung mang, không tiêu và xốp, làm dược chất được giải phóng từ từ trong ống tiêu hóa. Còn lactose lại làm dược chất dễ tan, nên được hấp thu nhanh trong thời gian ngắn.

Kỹ thuật bào chế và dạng thuốc:

Kỹ thuật bào chế là một yếu tố không kém phần quan trọng có tác động trực tiếp đến sinh khả dụng của thuốc, có thể kiểm soát được sự giải phóng dược chất và vị trí để thuốc giải phóng [ giải phóng tại đích]. Vì vậy nó thường được các nhà sản xuất giữ bí mật.

Hiện có rất nhiều dạng thuốc khác nhau được sản xuất theo các kỹ thuật khác nhau để sao cho:

Hoạt tính của thuốc được vững bền.

Dược chất được giải phóng với tốc độ ổn định.

Dược chất được giải phóng tại nơi cần tác động [giải phóng tại đích, targetting medication].

Thuốc có sinh khả dụng cao.

Về người dùng thuốc

Đặc điểm về tuổi

Trẻ em:

"Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại", nghĩa là không phải chỉ giảm liều thuốc của người lớn thì thành liều của trẻ em, mà trẻ em còn có những đặc điểm riêng của sự phát triển, đó là:

Sự gắn thuốc vào protein huyết tương còn ít, mặt khác, một phần protein huyết tương còn gắn bilirubin, dễ bị thuốc đẩy ra, gây ngộ độc bilirubin.

Hệ enzym chuyển hóa thuốc chưa phát triển.

Hệ thải trừ thuốc chưa phát triển.

Hệ thần kinh chưa phát triển, myelin còn ít, hàng rào máu - não chưa đủ bảo vệ nên thuốc dễ thấm qua và tế bào thần kinh còn dễ nhạy cảm [như với morphin].

Tế bào chứa nhiều nước, không chịu được thuốc gây mất nước.

Mọi mô và cơ quan đang phát triển, hết sức thận trọng khi dùng các loại hormon.

Một số tác giả đã đưa ra các công thức để tính liều lượng cho trẻ em.

Người cao tuổi:

Người cao tuổi cũng có những đặc điểm riêng cần lưu ý:

Các hệ enzym đều kém hoạt động vì đã "lão hóa"

Các tế bào ít giữ nước nên cũng không chịu được thuốc gây mất n ước

Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh [cao huyết áp, xơ vữa mạch, thấp khớp, tiểu đường...] nên phải dùng nhiều thuốc một lức. Cần rất chú ý tương tác thuốc khi kê đơn [xin xem phần "tương tác thuốc"]

Đặc điểm về giới

Nhìn chung, không có sự khác biệt về tác dụng và liều lượng của thuốc giữa nam và nữ. Tuy nhiên, với nữ giới, cần chú ý đến 3 thời kỳ:

Thời kỳ có kinh nguyệt:

Không cấm hẳn thuốc. Nếu phải dùng thuốc dài ngày, có từng đợt ngừng thuốc thì nên sắp xếp vào lúc có kinh.

Thời kỳ có thai:

Trong 3 tháng đầu, thuốc dễ gây dị tật bẩm sinh, tạo ra quái thai. Trong 3 tháng giữa thuốc có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của bào thai, đến chức phận phát triển của các cơ quan. Trong 3 tháng cuối, thuốc có thể gây xảy thai, đẻ non.

Vì vậy, khi cần chỉ định thuốc cho phụ nữ có thai, cần cân nhắc thật kỹ giữa lợi ích cho người mẹ và mức nguy hại cho bào thai. Nói chung, trong 3 tháng đầu, tuyệt đối tránh dùng mọi loại thuốc.

Đối với người mẹ, khi có thai, lượng nước giữ lại trong c ơ thể tăng, thể tích máu tăng, hàm lượng protein huyết tương có thể giảm, lượng lipid có thể tăng... làm ảnh hưởng đến động học của thuốc.

Thời kỳ cho con bú:

Rất nhiều thuốc khi dùng cho người mẹ sẽ thải trừ qua sữa và như vậy có thể gây độc hại c ho con. Các nghiên cứu về các loại thuốc này nói chung còn chưa được đầy đủ, do đó tốt nhất là chỉ nên dùng những loại thuốc thật cần thiết cho mẹ. Tuyệt đối không dùng những thuốc có chứa thuốc phiện và dẫn xuất của thuốc phiện [thuốc ho, codein, viên rửa ] vì thuốc thải trừ qua sữa và trung tâm hô hấp của trẻ rất nhạy cảm, có thể bị ngừng thở. Không dùng các loại corticoid [làm suy thượng thận trẻ], các kháng giáp trạng tổng hợp và iod [gây rối loạn tuyến giáp], cloramphenicol và thuốc phối hợp sulfametoxazol + trimethoprim [Co- trimoxazol] vì có thể gây suy tuỷ xương. Cần rất thận trọng khi dùng các thuốc ức chế thần kinh trung ương [meprobamat, diazepam], thuốc chống động kinh, đều gây mơ màng và li bì cho trẻ.

Trong dược lý học, sinh khả dụng [BA hoặc F] là một danh mục con của sự hấp thụ và là phần [%] của một thuốc uống điều đó đạt đến tuần hoàn toàn thân.[1]

Theo định nghĩa, khi một loại thuốc được sử dụng tiêm tĩnh mạch, sinh khả dụng của nó là 100%.[2][3] Tuy nhiên, khi một loại thuốc được sử dụng qua các tuyến đường khác với tiêm tĩnh mạch, sinh khả dụng của nó nói chung là[THỨ TỰ] thấp hơn so với tiêm tĩnh mạch do hấp thụ nội mô ruột và trao đổi chất đầu tiên. Do đó, về mặt toán học, sinh khả dụng bằng tỷ lệ so sánh diện tích dưới đường cong nồng độ thuốc trong huyết tương so với thời gian [AUC] đối với công thức ngoài mạch đến AUC đối với công thức nội mạch.[4] AUC được sử dụng vì AUC tỷ lệ với liều lượng thuốc đã đi vào hệ tuần hoàn.[5]

Khả dụng sinh học của thuốc là giá trị trung bình; lấy sự thay đổi dân số vào tài khoản, phạm vi sai lệch được hiển thị như ±.[4] Để đảm bảo rằng người uống thuốc có khả năng hấp thụ kém được sử dụng liều lượng thích hợp, giá trị dưới cùng của khoảng sai lệch được sử dụng để biểu thị sinh khả dụng thực và để tính toán liều lượng thuốc cần thiết cho người uống thuốc để đạt được nồng độ toàn thân tương tự như công thức tiêm tĩnh mạch.[4] Để định liều mà không cần biết tỷ lệ hấp thụ của người dùng thuốc, giá trị dưới cùng của khoảng sai lệch được sử dụng để đảm bảo hiệu quả dự kiến, trừ khi thuốc có liên quan đến hẹp cửa sổ trị liệu.[4]

Đối với bổ sung chế độ ăn uống, thảo mộc và các chất dinh dưỡng khác, trong đó đường dùng gần như luôn luôn là đường uống, sinh khả dụng thường chỉ định đơn giản số lượng hoặc một phần của liều uống được hấp thu.[6][7][8]

Các định nghĩa

Trong dược học

Trong dược lý học, sinh khả dụng là phép đo tốc độ và mức độ mà thuốc đạt được tại vị trí tác dụng.[9]Nó được ký hiệu bằng chữ cái f [hoặc, nếu được biểu thị bằng phần trăm, bằng F].

Trong khoa học dinh dưỡng

Trong khoa học dinh dưỡng, bao gồm việc hấp thụ các chất dinh dưỡng và các thành phần chế độ ăn uống không dùng thuốc, khái niệm sinh khả dụng thiếu các tiêu chuẩn được xác định rõ ràng liên quan đến ngành dược phẩm. Định nghĩa dược lý không thể áp dụng cho những chất này vì sử dụng và hấp thụ là một hàm của tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sinh lý của đối tượng,[10] dẫn đến sự khác biệt thậm chí còn lớn hơn giữa các cá nhân [sự biến đổi giữa các cá thể]. Do đó, khả dụng sinh học đối với thực phẩm chức năng có thể được định nghĩa là tỷ lệ của chất được sử dụng có khả năng được hấp thụ và sẵn có để sử dụng hoặc bảo quản.[11]

Ở cả hai dược lý học và khoa học dinh dưỡng, khả dụng sinh học được đo bằng cách tính khu vực dưới đường cong [AUC] của hồ sơ thời gian nồng độ thuốc.

Trong khoa học môi trường hoặc khoa học

Khả dụng sinh học là thước đo mà các chất khác nhau trong môi trường có thể xâm nhập vào cơ thể sống. Nó thường là một yếu tố hạn chế trong sản xuất cây trồng [do giới hạn khả năng hòa tan hoặc hấp thụ các chất dinh dưỡng của thực vật đối với chất keo trong đất] và trong việc loại bỏ các chất độc hại khỏi chuỗi thức ăn bởi vi sinh vật [do sự hấp thụ hoặc phân chia của các chất có thể phân hủy khác thành pha không tiếp cận được trong môi trường]. Một ví dụ đáng chú ý cho nông nghiệp là sự thiếu hụt phốt pho của cây trồng do kết tủa với phốt phát sắt và nhôm ở mức thấp độ pH của đất và kết tủa với canxi phốt phát ở pH đất cao.[12] Các vật liệu độc hại trong đất, chẳng hạn như chì từ sơn có thể không có sẵn đối với động vật ăn phải đất bị ô nhiễm bằng cách cung cấp quá mức phân bón phốt pho.[13] Các chất ô nhiễm hữu cơ như dung môi hoặc thuốc trừ sâu[14] có thể không có sẵn đối với vi sinh vật và do đó tồn tại trong môi trường khi chúng bị hấp phụ vào các khoáng chất trong đất[15] hoặc phân vùng thành chất hữu cơ kỵ nước.[16]

Sinh khả dụng tuyệt đối

Sinh khả dụng tuyệt đối là tỷ lệ diện tích dưới các đường cong. IV, tiêm tĩnh mạch; PO, đường uống. C là nồng độ trong huyết tương [đơn vị tùy ý].

Sinh khả dụng tuyệt đối so sánh sinh khả dụng của thuốc đang hoạt động trong hệ tuần hoàn sau khi khôngđường tĩnh mạch quản trị [tức là sau miệng, mắt, mắt, mũi, trực tràng, xuyên qua da, dưới da, hoặc là dưới lưỡi quản lý], với khả dụng sinh học của cùng một loại thuốc sau khi tiêm tĩnh mạch. Nó là một phần nhỏ của thuốc được hấp thu qua đường tiêm tĩnh mạch so với đường tiêm tĩnh mạch tương ứng của cùng một loại thuốc. Việc so sánh phải được chuẩn hóa liều lượng [ví dụ, tính đến các liều lượng khác nhau hoặc trọng lượng khác nhau của các đối tượng]; do đó, lượng hấp thụ được điều chỉnh bằng cách chia liều tương ứng đã dùng.

Trong dược lý học, để xác định sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc, dược động học nghiên cứu phải được thực hiện để có được một nồng độ thuốc trong huyết tương so với thời gian biểu đồ cho thuốc sau khi tiêm cả tĩnh mạch [iv] và ngoài mạch [không tiêm tĩnh mạch, tức là uống]. Sinh khả dụng tuyệt đối là diện tích đã hiệu chỉnh liều theo đường cong [AUC] không tiêm tĩnh mạch chia cho AUC tiêm tĩnh mạch. Công thức tính sinh khả dụng tuyệt đối, F, của một loại thuốc dùng bằng đường uống [po] được đưa ra dưới đây [trong đó D là liều dùng].

F a b S = 100 ⋅ A U C p o ⋅ D Tôi v A U C Tôi v ⋅ D p o { displaystyle F _ { mathrm {abs}} = 100 cdot { frac {AUC _ { mathrm {po}} cdot D _ { mathrm {iv}}} {AUC _ { mathrm {iv}} cdot D_ { mathrm {po}}}}}

Do đó, thuốc đưa vào đường tĩnh mạch sẽ có sinh khả dụng tuyệt đối là 100% [f = 1], trong khi các thuốc được cung cấp theo các đường khác thường có sinh khả dụng tuyệt đối là ít hơn Nếu chúng ta so sánh hai dạng bào chế khác nhau có cùng hoạt chất và so sánh sinh khả dụng của hai thuốc được gọi là sinh khả dụng so sánh.[cần trích dẫn]

Mặc dù biết rõ mức độ hấp thụ toàn thân thực sự [được gọi là sinh khả dụng tuyệt đối] rõ ràng là hữu ích, nhưng trên thực tế, nó không được xác định thường xuyên như người ta nghĩ. Lý do cho điều này là đánh giá của nó yêu cầu một tham chiếu tĩnh mạch; có nghĩa là, một đường dùng đảm bảo tất cả các thuốc được sử dụng đến được tuần hoàn toàn thân. Các nghiên cứu như vậy có chi phí đáng kể, đặc biệt là sự cần thiết phải tiến hành các thử nghiệm độc tính tiền lâm sàng để đảm bảo an toàn đầy đủ, cũng như các vấn đề tiềm ẩn do giới hạn độ hòa tan. Tuy nhiên, những hạn chế này có thể được khắc phục bằng cách sử dụng một liều lượng rất thấp [thường là vài microgam] thuốc được dán nhãn đồng vị đồng thời với liều uống điều trị không được dán nhãn đồng vị [liều tiêm tĩnh mạch được dán nhãn đồng vị đủ thấp để không làm xáo trộn nồng độ thuốc toàn thân đạt được từ liều uống không được dán nhãn]. Sau đó, nồng độ trong tĩnh mạch và đường uống có thể được loại bỏ do cấu tạo đồng vị khác nhau của chúng, và do đó có thể được sử dụng để xác định dược động học đường uống và đường tiêm tĩnh mạch từ cùng một liều dùng. Kỹ thuật này giúp loại bỏ các vấn đề dược động học với độ thanh thải không tương đương cũng như cho phép sử dụng liều tiêm tĩnh mạch với mức tối thiểu độc tính và công thức. Kỹ thuật này lần đầu tiên được áp dụng bằng cách sử dụng các đồng vị ổn định như 13C và phép đo khối phổ để phân biệt các đồng vị bằng hiệu số khối. Gần đây hơn, 14Thuốc được dán nhãn C được sử dụng theo đường tĩnh mạch và khối phổ gia tốc [AMS] được sử dụng để đo thuốc được dán nhãn đồng vị cùng với khối phổ đối với thuốc không được dán nhãn.[17]

Không có yêu cầu quy định để xác định dược động học đường tĩnh mạch hoặc sinh khả dụng tuyệt đối, tuy nhiên, cơ quan quản lý đôi khi yêu cầu thông tin sinh khả dụng tuyệt đối của đường ngoại mạch trong trường hợp sinh khả dụng rõ ràng là thấp hoặc thay đổi và có mối quan hệ đã được chứng minh giữa dược lực học và dược động học ở liều điều trị. Trong tất cả các trường hợp như vậy, để tiến hành một nghiên cứu sinh khả dụng tuyệt đối đòi hỏi thuốc phải được tiêm tĩnh mạch.[18]

Tiêm tĩnh mạch một loại thuốc phát triển có thể cung cấp thông tin có giá trị về các thông số dược động học cơ bản của khối lượng phân phối [V] và giải tỏa [CL].[18]

Sinh khả dụng tương đối và tương đương sinh học

Trong dược lý học, sinh khả dụng tương đối đo lường khả dụng sinh học [ước tính là AUC] của một công thức [A] của một loại thuốc nhất định khi được so sánh với một công thức khác [B] của cùng một loại thuốc, thường là một chất chuẩn đã được thiết lập hoặc thông qua việc sử dụng thông qua một đường khác. Khi tiêu chuẩn bao gồm thuốc tiêm tĩnh mạch, điều này được gọi là sinh khả dụng tuyệt đối [xem ở trên].

F r e l = 100 ⋅ A U C A ⋅ D B A U C B ⋅ D A { displaystyle F _ { mathrm {rel}} = 100 cdot { frac {AUC _ { mathrm {A}} cdot D _ { mathrm {B}}} {AUC _ { mathrm {B}} cdot D_ { mathrm {A}}}}}

Sinh khả dụng tương đối là một trong những thước đo được sử dụng để đánh giá tương đương sinh học [LÀ] giữa hai sản phẩm thuốc. Để được FDA chấp thuận, một nhà sản xuất chung phải chứng minh rằng 90% khoảng tin cậy cho tỷ lệ các phản hồi trung bình [thường là AUC và nồng độ tối đa, Ctối đa] của sản phẩm của mình thành "biệt dược"[OB] nằm trong giới hạn từ 80% đến 125%. Ở đâu AUC đề cập đến nồng độ của thuốc trong máu theo thời gian t = 0 đến t = ∞, Ctối đa đề cập đến nồng độ tối đa của thuốc trong máu. Khi nào Ttối đa được đưa ra, nó đề cập đến thời gian cần thiết để một loại thuốc đạt được Ctối đa.

Trong khi các cơ chế mà công thức ảnh hưởng đến sinh khả dụng và tương đương sinh học đã được nghiên cứu rộng rãi trong thuốc, các yếu tố công thức ảnh hưởng đến sinh khả dụng và tương đương sinh học trong các chất bổ sung dinh dưỡng phần lớn vẫn chưa được biết.[19] Kết quả là, trong khoa học dinh dưỡng, sinh khả dụng tương đối hoặc tương đương sinh học là thước đo sinh khả dụng phổ biến nhất, so sánh sinh khả dụng của một công thức của cùng một thành phần chế độ ăn uống khác.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh khả dụng

Sinh khả dụng tuyệt đối của một loại thuốc, khi sử dụng theo đường ngoại mạch, thường nhỏ hơn một [tức là F

Các yếu tố khác có thể bao gồm, nhưng không giới hạn ở:

  • Tính chất vật lý của thuốc [tính kỵ nước, pKa, sự hòa tan]
  • Công thức thuốc [giải phóng ngay lập tức, tá dược được sử dụng, phương pháp sản xuất, bản sửa đổi - phát hành chậm, phát hành mở rộng, phát hành liên tục, v.v.]
  • Cho dù công thức được sử dụng trong thức ăn hoặc nhịn ăn tiểu bang
  • Tỷ lệ làm rỗng dạ dày
  • Circadian sự khác biệt
  • Tương tác với các loại thuốc / thực phẩm khác:
  • Người vận chuyển: Chất nền của dòng chảy người vận chuyển [ví dụ: P-glycoprotein]
  • Sức khỏe của đường tiêu hóa
  • Enzyme cảm ứng / ức chế bởi các loại thuốc / thực phẩm khác:
  • Sự khác biệt về sự khác biệt trong trao đổi chất
  • Tình trạng bệnh tật
    • Ví dụ., gan thiếu hụt, nghèo nàn thận chức năng

Mỗi yếu tố này có thể khác nhau ở mỗi bệnh nhân [sự thay đổi giữa các cá thể], và thực sự ở cùng một bệnh nhân theo thời gian [sự thay đổi nội bộ cá nhân]. Trong các thử nghiệm lâm sàng, sự thay đổi giữa các cá thể là một phép đo quan trọng được sử dụng để đánh giá sự khác biệt về sinh khả dụng giữa các bệnh nhân để đảm bảo liều lượng dự đoán được.

Khả dụng sinh học của thuốc so với thực phẩm chức năng

So với thuốc, có sự khác biệt đáng kể trong thực phẩm chức năng ảnh hưởng đến việc đánh giá khả dụng sinh học của chúng. Những khác biệt này bao gồm những điều sau đây: thực tế là các chất bổ sung dinh dưỡng mang lại những lợi ích có thể thay đổi và thường mang tính chất định tính; việc đo lường sự hấp thụ dinh dưỡng thiếu chính xác; bổ sung dinh dưỡng được tiêu thụ để phòng ngừa và hạnh phúc; bổ sung dinh dưỡng không thể hiện đặc tính đường cong đáp ứng liều; và khoảng thời gian dùng thuốc bổ sung dinh dưỡng, do đó, không quan trọng trái ngược với điều trị bằng thuốc.[11]

Ngoài ra, việc thiếu phương pháp luận xác định và các quy định xung quanh việc tiêu thụ thực phẩm chức năng cản trở việc áp dụng các biện pháp sinh khả dụng so với thuốc. Trong các thử nghiệm lâm sàng với thực phẩm chức năng, sinh khả dụng chủ yếu tập trung vào các mô tả thống kê về sự khác biệt AUC trung bình hoặc trung bình giữa các nhóm điều trị, trong khi thường không so sánh hoặc thảo luận về độ lệch chuẩn của chúng hoặc sự thay đổi giữa các cá thể. Sự thất bại này mở ra câu hỏi về việc liệu một cá nhân trong nhóm có khả năng trải nghiệm những lợi ích được mô tả bằng các so sánh khác biệt trung bình hay không. Hơn nữa, ngay cả khi vấn đề này đã được thảo luận, sẽ rất khó để truyền đạt ý nghĩa của những khác biệt giữa các chủ thể này cho người tiêu dùng và / hoặc bác sĩ của họ.

Khoa học dinh dưỡng: sinh khả dụng đáng tin cậy và phổ quát

Một cách để giải quyết vấn đề này là xác định "sinh khả dụng đáng tin cậy" là kết quả sinh khả dụng dương tính [mức hấp thụ đáp ứng tiêu chí xác định trước] bao gồm 84% đối tượng thử nghiệm và "sinh khả dụng phổ biến" là kết quả bao gồm 98% đối tượng thử nghiệm. Khuôn khổ phổ quát đáng tin cậy này sẽ cải thiện thông tin liên lạc với các bác sĩ và người tiêu dùng, ví dụ, nếu nó được đưa vào nhãn sản phẩm, đưa ra các lựa chọn có học thức về lợi ích của công thức đối với họ một cách trực tiếp. Ngoài ra, khuôn khổ phổ quát đáng tin cậy tương tự như việc xây dựng khoảng tin cậy, mà các nhà thống kê từ lâu đã đưa ra như một giải pháp tiềm năng để xử lý các mẫu nhỏ, vi phạm các giả định thống kê hoặc độ lệch chuẩn lớn.[20]

Xem thêm

  • ADME-Tox
  • Hệ thống phân loại dược phẩm sinh học
  • Caco-2
  • Quy tắc 5 của Lipinski

Ghi chú

^ THỨ TỰ: Một trong số ít các trường hợp ngoại lệ khi thuốc cho thấy F trên 100% là theophylline. Nếu dùng dưới dạng dung dịch uống F là 111%, vì thuốc được hấp thu hoàn toàn và bỏ qua quá trình chuyển hóa lần đầu ở phổi sau khi tiêm tĩnh mạch.[21]
^ OB: Tham khảo các sản phẩm thuốc được liệt kê [tức là của nhà đổi mới] cũng như các sản phẩm thuốc gốc đã được phê duyệt dựa trên Đơn đăng ký thuốc mới viết tắt được đưa ra trong FDA Sách màu cam.

Người giới thiệu

  1. ^ Hebert, Mary F. [2013]. "Tác động của Mang thai đến Dược động học của Người mẹ của Thuốc". Dược lý lâm sàng khi mang thai. Elsevier. trang 17–39. doi:10.1016 / b978-0-12-386007-1.00003-9. ISBN 978-0-12-386007-1.
  2. ^ Griffin, J. P. Giáo trình Dược phẩm [Xuất bản lần thứ 6]. Jersey: BMJ Books. ISBN 978-1-4051-8035-1.[trang cần thiết]
  3. ^ Flynn, Edward [2007]. "Các thông số dược động học". xPharm: Tài liệu Tham khảo Dược lý Toàn diện. Elsevier. trang 1–3. doi:10.1016 / b978-008055232-3.60034-0. ISBN 978-0-08-055232-3.
  4. ^ a b c d Davis, Jennifer L. [2018]. "Nguyên tắc Dược lý". Nội khoa ngựa. Elsevier. trang 79–137. doi:10.1016 / b978-0-323-44329-6.00002-4. ISBN 978-0-323-44329-6.
  5. ^ Johanson, G. [2010]. "Mô hình hóa sự bố trí". Độc chất học toàn diện. Elsevier. trang 153–177. doi:10.1016 / b978-0-08-046884-6.00108-1. ISBN 978-0-08-046884-6.
  6. ^ Heaney, Robert P. [2001]. "Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đo lường sinh khả dụng, lấy canxi làm hình mẫu". Tạp chí Dinh dưỡng. 131 [4]: 1344S – 8S. doi:10.1093 / jn / 131.4.1344S. PMID 11285351.
  7. ^ SANDSTEAD, HAROLD H.; AU, WILLIAM [2007]. "Kẽm ** Tiến sĩ Carl-Gustaf Elinder là tác giả của chương này trong ấn bản thứ 2 của Sổ tay về Độc tính của Kim loại; văn bản của ông cung cấp hướng dẫn.". Sổ tay về Độc tính của Kim loại. Elsevier. trang 925–947. doi:10.1016 / b978-012369413-3 / 50102-6. ISBN 978-0-12-369413-3. Sinh khả dụng là yếu tố chính ảnh hưởng đến nhu cầu chế độ ăn uống [Sandstrom, 1997]. Thức ăn từ thịt tạo điều kiện thuận lợi cho sinh khả dụng, mặc dù phối tử liên kết với Zn khó tiêu làm giảm sinh khả dụng [Mills, 1985].
  8. ^ Solomons, N.W. [2003]. "ZINC | Sinh lý học". Bách khoa toàn thư về khoa học thực phẩm và dinh dưỡng. Elsevier. trang 6272–6277. doi:10.1016 / b0-12-227055-x / 01309-2. ISBN 978-0-12-227055-0. Khả dụng sinh học đề cập đến cả sự hấp thu và sử dụng chuyển hóa của một chất dinh dưỡng.
  9. ^ Shargel, L.; Yu, A. B. [1999]. Dược sinh học & Dược động học ứng dụng [Xuất bản lần thứ 4]. New York: McGraw-Hill. ISBN 978-0-8385-0278-5.[trang cần thiết]
  10. ^ Heaney, Robert P. [2001]. "Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đo lường sinh khả dụng, lấy canxi làm hình mẫu". Tạp chí Dinh dưỡng. 131 [4 Suppl]: 1344–1348S. doi:10.1093 / jn / 131.4.1344S. PMID 11285351.
  11. ^ a b Srinivasan, V. Srini [2001]. "Tính khả dụng sinh học của chất dinh dưỡng: Phương pháp tiếp cận thực tế để chứng minh trong ống nghiệm về sự sẵn có của chất dinh dưỡng trong các sản phẩm kết hợp đa vitamin-khoáng chất". Tạp chí Dinh dưỡng. 131 [4 Suppl]: 1349–1350S. doi:10.1093 / jn / 131.4.1349S. PMID 11285352.
  12. ^ Hinsinger, Philippe [2001]. "Tính khả dụng sinh học của P vô cơ trong đất trong tầng sinh quyển khi bị ảnh hưởng bởi những thay đổi hóa học do rễ gây ra: một đánh giá". Thực vật và đất. 237 [2]: 173–195. doi:10.1023 / A: 1013351617532. S2CID 8562338.
  13. ^ Ma, Qi-Ying; Traina, Samuel J. .; Logan, Terry J.; Ryan, James A. [1993]. "Cố định chì tại chỗ bằng apatit". Khoa học & Công nghệ Môi trường. 27 [9]: 1803–1810. doi:10.1021 / es00046a007.
  14. ^ Sims, G.K .; Radosevich, M.; Anh ấy, X.-T.; Traina, S. J. [1991]. "Ảnh hưởng của quá trình hấp phụ lên sinh khả dụng của thuốc trừ sâu". Trong Betts, W. B. [ed.]. Phân hủy sinh học vật liệu tự nhiên và tổng hợp. London: Springer. trang 119–137.
  15. ^ O'Loughlin, Edward J.; Traina, Samuel J. .; Sims, Gerald K. [2000]. "Ảnh hưởng của quá trình hấp phụ đối với sự phân hủy sinh học của 2-methylpyridine trong huyền phù nước của các khoáng sét đối chứng". Chất độc môi trường và Hóa học. 19 [9]: 2168–2174. doi:10.1002 / etc.5620190904.
  16. ^ Sims, Gerald K.; Cu gợn sóng, Alison M. [1999]. “Các yếu tố kiểm soát sự thoái hóa của thuốc bảo vệ thực vật trong đất”. Khoa học thuốc trừ sâu. 55 [5]: 598–601. doi:10.1002 / [SICI] 1096-9063 [199905] 55: 5 3.0.CO; 2-N.
  17. ^ Lappin, Graham; Rowland, Malcolm; Garner, R. Colin [2006]. "Việc sử dụng đồng vị trong việc xác định sinh khả dụng tuyệt đối của thuốc ở người". Ý kiến ​​của chuyên gia về chuyển hóa thuốc & độc chất. 2 [3]: 419–427. doi:10.1517/17425255.2.3.419. PMID 16863443. S2CID 2383402.
  18. ^ a b Lappin, Graham; Stevens, Lloyd [2008]. "Khối phổ máy gia tốc y sinh: Các ứng dụng gần đây trong chuyển hóa và dược động học". Ý kiến ​​của chuyên gia về chuyển hóa thuốc & độc chất. 4 [8]: 1021–1033. doi:10.1517/17425255.4.8.1021. PMID 18680438. S2CID 95122610.
  19. ^ Hoag, Stephen W .; Hussain, Ajaz S. [2001]. "Tác động của công thức đối với sinh khả dụng: Tóm tắt thảo luận hội thảo". Tạp chí Dinh dưỡng. 131 [4 Suppl]: 1389–1391S. doi:10.1093 / jn / 131.4.1389S. PMID 11285360.
  20. ^ Kagan, Daniel; Madhavi, Doddabele; Ngân hàng, Ginny; Lachlan, Kenneth [2010]. "'Tuyên bố về khả dụng sinh học phổ biến và 'đáng tin cậy': Tiêu chí có thể làm tăng niềm tin của bác sĩ vào các chất bổ sung dinh dưỡng " [PDF]. Tạp chí Y học Tự nhiên. 2 [1]: 1–5. Đã lưu trữ từ bản gốc [PDF] vào ngày 13 tháng 3 năm 2016. Đã lấy 2013-02-06.
  21. ^ Schuppan, D.; Molz, K. H.; Staib, A. H.; Rietbrock, N. [1981]. "Khả dụng sinh học của theophylline từ công thức aminophylline giải phóng bền vững [viên nén Euphyllin chậm] - nồng độ trong huyết tương sau khi uống một lần và nhiều liều". Tạp chí Quốc tế về Dược lý Lâm sàng, Trị liệu và Độc chất. 19 [5]: 223–227. PMID 7251238.

Nguồn

  • Rowland, Malcolm; Tozer, N. [2010]. Dược động học và Dược lực học lâm sàng: Khái niệm và ứng dụng [4 ed.]. Philadelphia, PA: Lippincott Williams & Wilkins. ISBN 978-0-7817-5009-7.
  • Welling, Peter G.; Tse, Francis L. S.; Dighe, Shrikant V. [1991]. Tương đương sinh học dược phẩm. Thuốc và Khoa học Dược phẩm. 48. New York, NY: Marcel Dekker. ISBN 978-0-8247-8484-3.
  • Hauschke, Dieter; Steinijans, Volker; Pigeot, Iris [2007]. "Các chỉ số để mô tả cấu hình thời gian nồng độ trong các nghiên cứu tương đương sinh học một liều và nhiều liều". Nghiên cứu tương đương sinh học trong phát triển thuốc: Phương pháp và ứng dụng. Thống kê trong thực tế. Chichester, Vương quốc Anh: John Wiley và các con trai. trang 17–36. ISBN 978-0-470-09475-4. Đã lấy 21 tháng 4 2011.
  • Chow, Shein-Chung; Liu, Jen-pei [ngày 15 tháng 10 năm 2008]. Thiết kế và phân tích các nghiên cứu sinh khả dụng và tương đương sinh học. Dòng thống kê sinh học. 27 [Xuất bản lần thứ 3]. FL: CRC Nhấn. ISBN 978-1-58488-668-6.

liện kết ngoại

  • Các tuyến đường dùng thuốc
  • Sinh khả dụng của thuốc

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề