Điển tích Vũ Hầu là gì

Ý nghĩa của từ Vũ Hầu là gì:

Vũ Hầu nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 5 ý nghĩa của từ Vũ Hầu. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa Vũ Hầu mình


4

  2


Tức Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán, có nhiều công lao, được phong tước Vũ Vương Hầu gọi tắt là Vũ Hầu và có khi gọi là Gia Cát Vũ Hầu

Nguồn: informatik.uni-leipzig.de


3

  1


Vũ Hầu [chữ Hán giản thể: 武侯区, Hán Việt: Vũ Hầu khu] là một quận tại trung tâm thành phố Thành Đô, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đây là một trong khu vực [..]


3

  1


Vũ Hầu [chữ Hán 武侯] là thụy hiệu của một số vị quân chủ.

Thế kỉ X-XV là giai đoạn vàng son chói lọi trong lịch sử dân tộc, là thời đại của hào khí Đông A với âm hưởng hào hùng của những cuộc chiến tranh vệ quốc chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Rất nhiều nhà thơ, nhà văn dùng ngòi bút của mình để tô thắm những chiến công huy hoàng đó, trong đó có nhà thơ Phạm Ngũ Lão với bài thơ "Tỏ lòng".

Phạm Ngũ Lão-một danh tướng thời Trần, một người văn võ song toàn, người có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược, trụ cột của vương triều nhà Trần. Khi vó ngựa quân Mông Cổ dày xéo đất nước, gieo rắc nỗi kinh hoàng khắp nơi, Phạm Ngũ Lão đã xuất quân theo tiếng gọi của triều đình đánh tan quân xâm lược hung hãn. Tráng chí ngất trời của đấng nam nhi và sức mạnh vô song của thời đại được Phạm Ngũ Lão thể hiện thành công qua bài thơ "tỏ lòng". Bài thơ cũng là bức tự hoạ, làm tâm sự sâu kín và trăn trở của danh tướng PNL.

Được viết vào năm 1284, khi vó ngựa xâm lược của quân Nguyên Mông dày xéo đất nước lần 3, nhà thơ PNL đã kết hợp chất sử thi, chất hiện thực và lãng mạn để tạo nên bức tranh kì vĩ, hoành tráng về tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân nhà Trần. Đội quân đã khắc lên mình hai chữ "sát thát" nguyện hi sinh thân mình vì Tổ quốc. Nhan đề chữ Hán của bài thơ "thuật hoài" là tỏ lòng, bày tỏ khí phách, lí tưởng, khát vọng cao cả, hoài bão lớn lao của một vị tướng thời Trần chan chứa tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Hai câu thơ đầu là vẻ đẹp của người tráng sĩ đời Trần cũng là vẻ đẹp của thời đại:"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,Tam quân tì hổ khí thôn ngưu."[Múa giáo non sông trải mấy thu, Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.]Với âm hưởng thơ chữ Hán vừa cổ kính, trang nghiêm, vừa hào hùng, chân dung và lí tưởng sống đẹp của người trai đời Trần đã đc tạc vào không gian vô cùng kì vĩ:"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu""Hoành" là ngang, "sóc" là giáo, cắp ngang ngọn giáo, cây trường giáo ấy như vừa đo bằng cả chiều ngang của non sông "giang sơn", như vừa mang kích thước thgian, chiều dài của lịch sử "kháp kỉ thu" [ mấy mùa thu ]. Chỉ một câu thơ ngắn gọn, súc tích đã tái hiện chân dung, tư thế, cả ý thức và tinh thần trách nhiệm của người tráng sĩ cắp ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước, bato vệ non sông ròng rã mấy năm không nghỉ. Hình ảnh người tráng sĩ hiện lên với tầm vóc lớn lao, kì vĩ mang tầm vũ trụ, với 1 tư thế ngang tàn, hiên ngang, oai phong lẫm liệt, 1 chí khí bền bỉ, 1 hoài bão tung hoành của đấng nam nhi thời loạn lạc. Hình ảnh người trai đời Trần đó cũng chính là bức chân dung tự hoạ về mình của nhà thơ PNL. Hình ảnh thơ này làm ta nhớ đến hình ảnh người tráng sĩ trong bài "chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn: "Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo"Câu thơ ý chỉ xông pha ra trận, đối mặt với kẻ thù hung bạo chẳng khác gì "vào ngàn hang beo". Vậy mà tư thế của họ vẫn lẫm liệt uy nghi - một tư thế đẹp như những dũng sĩ trong huyền thoại. Đây chính là vẻ đẹp của lòng yêu nước cao độ, của lý tưởng xả thân đầy tinh thần tự nguyện, đáng ngưỡng mộ vì đất nước. Vẻ đẹp ấy còn đc thể hiện rõ ở sức mạnh của quân đội nhà Trần:"Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"[Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu]"Ba quân" là đội quân của nhà Trần gồm tiền quân, trung quân, hậu quân. "Tì hổ" là sức mạnh như hổ báo. "Khí thôn ngưu" có thể hiểu là sức mạnh có thể nuốt trôi trâu, cũng có thể là sức mạnh như vũ bão áp cả trời cao. Để làm nổi bật sức mạnh vô song ấy, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, ngôn ngữ phóng đại khoa trương, lối nói thậm xưng. Âm hưởng thơ hào hùng, mạnh mẽ, kết hợp giưax chất hiện thực, cảm hứng sử thi, cảm hứng lãng mạn, bay bổng, nhằm gợi lên trước mắt người đọc hình ảnh "ba quân" cũng là hình ảnh của dân tộc, của thời đại, vừa có sức mạnh về vật chất, vừa có sức mạnh vô song về tinh thần. Đồng thời tạo nên một không gian chiến trận kì vĩ mang tầm vũ trụ. Đội quân nhà Trần điệp trùng ra trận với khí thế dũng mãnh, với tinh thần chiến đấu bừng bừng khí thế không kẻ thù nào ngăn cản nổi.

Hai câu thơ đã tạo dựng hai hình ảnh: hình ảnh người tráng sĩ lồng trong hình ảnh "ba quân" cũng là hình ảnh dân tộc tạo nên vẻ đẹp thống nhất, hoành tráng, có tính chất sử thi. Qua đó còn thể hiện cảm hứng mãnh liệt, sảng khoái của nhà thơ về sức mạnh tuyệt vời của đội quân quyết chiến quyết thắng, vừa thể hiện cái chân thực của đất nước, cái hào khí của thời đại anh hùng: hào khí Đông A.

Nếu hai câu đầu, PNL bày tỏ niềm tự hài về chân dung người tráng sĩ về quân đội nhà Trần thì hai câu cuối là tâm sự của nhà thơ vê lí tưởng làm trai trong thời phong kiến:"Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"[Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu]Tráng sĩ "Bình nguyên" ra trận mang theo một ước mơ chát bỏng khát khao lập đc chiến công để đền ơn vua báo nợ nước, thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng. Nhưbgx tướng sĩ đời Trần luôn mơ ước, tự hào về nhiều chiến tích hiển hách. Hai câu thơ đã sử dụng điển tích điển cố về Vũ hầu Gia Cát Lượng để nói về công danh của nam nhi thời loạn, giặc dã. Quan niệm nhân sinh của thời đại phong kiến: làm trai phải có công danh, phải lập đc công lưu danh sử sách. Chí làm trai là phải trả đc món nợ công danh, nhờ quan niệm này mà PNL cùng dân tộc chiến đấu bền bỉ, lập đc chiến công. Công danh mà PNL nói đến là công danh đc làm nên bằng máu, bằng tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ công danh tầm thường, đậm màu sắc cá nhân mà là công danh vì dân tộc, vì đất nc. Vì thế công danh đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến. Sau này nhà thơ Nguỹen Công Trứ cũng khẳng định:"Đã mang tiếng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông."Lập đc chiến công, trả nợ tang bồng thì phải xứng đáng là nam nhi đại trượng phu. Nợ công danh là một món nợ, một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả bằng cả xương máu và lòng dũng cảm. Muốn vậy thì họ phải rèn luyện binh thư, rèn luyện cung tên, chiến mã sẵn sàng chiến đấu. PNL ý thức rất rõ đấng nam nhi như mình dù đánh đông dẹp bắc biết bao mùa thu mà đất nước vẫn chưa yên bóng giặc, bản thân còn vương nợ với đời:"Công danh nam tử còn vương nợ,Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu."Câu thơ đầu cho thấy mối băn khoăn thường trực với dân tộc, bấy nhiêu điều đã làm cho dân cho nước nhưng chưa đủ, chưa thoả mãn. Từ suy nghĩ đó, trong tâm trạng nhà thơ PNL nảy sinh nỗi thẹn:"Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu."Câu thơ đã sử dụng điển tích về Vũ hầu Gia Cát Lượng. Nhà thơ "thẹn" vì cảm thấy mình chưa có tài mưu lược như Vũ hầu thời Hán giúp Lưu Bị trừ giặc, cứu nước, khôi phục giang sơn, chưa báo đáp đc cái ơn của chủ tướng. Đây là cái "thẹn" làm nên nhân cách cao cả, nhân cách lớn. Đây cũng là biểu hiện về ý thức trách nhiệm của một cá nhân, một công dân với vận mệnh Tổ quốc. Hai câu thơ đã gói trọn cảm xúc về cáo chí, cáivtaam của người anh hùng, cả ý thức phụng sự đất nước và hoài bão lập đc chiến công báo quốc-một biểu hiện của lòng yêu nước sâu sắc

"Tỏ lòng" đc viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, giọng thơ hùng tráng mang đậm chất sử thi, mang phong vị anh hùng ca, ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng thơ kì vĩ tráng lệ. Qua đó nhằn khắc hoạ vẻ đẹp và hoài bão lớn lao của một vị dũng tướng và khí thế hào hùng của cả một thời dại

Xuất bản ngày 06/12/2019 - Tác giả: Giangdh

[Văn mẫu 10] Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi thẹn của người quân tử

Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được nỗi thẹn của người anh hùng không hề bình thường chút nào mà đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về sự nghiệp lớn muôn trời, vì sự bình yên của sơn hà, xã tắc.

>>> Hướng dẫn Soạn bài Tỏ lòng ngắn gọn nhất

Nội dung khái quát 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu]

- Chí "nam nhi": "Công danh trái" Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước. Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người

và xã hội.

- "Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu": Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong

Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

------

Bài văn phân tích hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng của học sinh giỏi văn

Phạm Ngũ Lão được biết đến là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh đó ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là "Tỏ lòng" [Thuật hoài] và "Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương". Đặc biệt, "Tỏ lòng" đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hiên ngang với lí tưởng và nhân cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.

Bài thơ "Tỏ lòng" [Thuật hoài] được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả trú trọng ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người anh hùng hiên ngang lẫm liệt thì ở hai câu thơ cuối như một lời bộc bạch của kẻ làm trai, công danh, sự nghiệp như một món nợ đời

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu]

Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng ấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân.

Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc. Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, mà nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với đất nước: "Nam nhi vị liễu công danh trái". Lí tưởng công danh ấy thể hiện cái nhìn tiến bộ và nhân cách cao đẹp của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước, giúp đời. Nghĩ thấy bản thân chưa trả trọn nợ công danh, tác giả trăn trở, băn khoăn: "Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu".

Vũ Hầu chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài đức vẹn toàn đời Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều.Ông cảm thấy "thẹn" khi đối sánh mình với cha ông, tự thấy bản thân chưa thể sánh được với họ. Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhường khi đặt bản thân mình bên cạnh mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng thể hiện khát vọng lập công và chí làm
trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.

Với hệ thống ngôn từ hàm súc, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, "Tỏ lòng" đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm hưởng mạnh mẽ ấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống không bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

Tham khảo thêm: Bài văn mẫu phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Văn mẫu 10 - Phân tích 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.

Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A.

Chúng ta có thể thấy được hình ảnh trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Không có một từ ngữ nào có thể tả hết được chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên mạnh mẽ là vậy nhưng trong lòng quân tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

[Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu]

Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.

“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng  khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:

“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”

[Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai].

Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

hay:

“Ơn vua chưa chút đáp đền

Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Có thể bạn quan tâm: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

--------

Trên đây là bài văn mẫu phân tích hai câu thơ cuối trong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão mà Đọc tài liệu đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình học bài và làm bài. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 10

Video liên quan

Chủ Đề