Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa như thế nào đối với nước ta hiện nay?

Hình thái kinh tế xã hội là nội dung bắt nguồn từ học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của do Mác – Ăngghen phát hiện ra vào những năm 40 của thế kỷ 19, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển, vận dụng lý luận này vào Cách mạng Tháng 10 Nga.  Hình thái kinh tế xã hội là sự vận động và phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử – tự nhiên, để cho ra đời các loại hình thái này đến hình thái khác với những tiến bộ hơn hẳn các hình thái trước đó. Tìm hiểu về hình thái kinh tế xã hội là tìm hiểu về sự vận hành của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người.

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568              

1. Hình thái kinh tế xã hội là gì?

Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào phân tích đời sống xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê – nin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế – xã hội.

Theo Mác Lê – nin, hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dung để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Như vậy, kết cấu của hình thái kinh tế – xã hội theo khái niệm trên bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.

Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên và năng lực thực tiễn của con người. Lực lượng sản xuất làm ra tư liệu sản xuất cho xã hội, từ lực lượng sản xuất này sẽ nảy sinh quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các  hình thái kinh tế- xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Từ lực lượng sản xuất sẽ hình thành nên một tổng thể đó là kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định và đều có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tác rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.

Với khái niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống hết sực phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một quá trình lịch sử – tự nhiên. Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu, tìm tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Hình thái kinh tế xã hội trong Tiếng anh là “Socioeconomic form“.

2. Năm hình thái kinh tế xã hội:

Xã hội loài người đã biết đến năm hình thái kinh tế – xã hội tương ứng với năm phương thức sản xuất: hình thái kinh tế – xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

– Hình thái kinh tế – xã hội cộng đồng nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc trưng nổi bật của hình thái này là: Tư liệu lao động thô sơ, chủ yếu sử dụng đồ đá, thân cây làm công cụ lao động; Cơ sở kinh tế là sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động; Là xã hội chưa có giai cấp, Nhà nước và pháp luật; Quan hệ sản xuất là quan hệ bình đẳng, cùng làm cùng hưởng thụ.

– Hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ: Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu [sở hữu chung] về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng [chủ nô – nô lệ], thay thế chế độ tự quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã hội này được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra kiểu nhà nước đầu tiên: Nhà nước chủ nô.

– Hình thái kinh tế – xã hội phong kiến: Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư thừa của mình. Đồng thời nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.

– Hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa:

Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức xác lập như một hình thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ 17. Adam Smith [1723-1790] là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Những nét đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa: Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền thiêng liêng của con người; Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế; Gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất lao động cao; Bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo ra khi các nhà tư bản thuê lao động và sử dụng sức lao động.

– Hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa.

Dựa trên sự phân tích trực tiếp những mâu thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đầu, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dựa vào triển vọng của phong trài công nhân, Mác và Ăng – ghen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai, đó là sự tất yếu của việc tiến tới hình thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội. Mác và Ăng – ghen cũng  đã từng lưu ý về xây dựng Chủ nghĩa cộng sản “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi Chủ nghĩa cộng ản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ mọi trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”.

Những lý luận của Mác, Ăng – ghen và đặc biết là Lê – nin đã giúp Đảng và nhân dân ta có những bước đi thành công mặc dù cũng còn tồn tại không ít hạn chế trong nhận thức vận dụng quy luật này. Một trong những tồn tại lớn nhất đó là việc chúng ta chưa nhận thức quy luật nay một cách đúng đắn mà chủ quan, duy ý chí thời kì những năm trước 1986. Trước năm 1986, ở Việt Nam có hai hình thức sở hữu: sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước trong khi đó quan hệ quản lý là hành chính – quan liêu kiểu bao cấp, quan hệ phân phối là binh quân dẫn tới quan hệ sản xuất lỗi thời không phù hợp, kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Tóm lại, đó là những sai lầm thuộc về chủ quan, duy ý chí. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại Chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa xã hội.

Mỗi một hình thái kinh tế – xã hội đều tồn tại trong một gia đoạn lịch sử nhất định, phản ánh một chế độ lịch sử nhất định. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa…Vì vật, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hoặc một số nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử – tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.

Thứ ba, 09:50 01-06-2021

Trong kho tàng lý luận của Mác để lại cho loài người, Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội [hay Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội] của ông được coi là "cơ sở phương pháp luận của các khoa học xã hội, là hòn đá tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội"[1]. V.I.Lênin - trong khi bảo vệ những luận điểm khoa học của Mác - đã viết trong tác phẩm Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao? rằng: "Mác là người đầu tiên đã làm cho xã hội học có một cơ sở khoa học, bằng cách xác định khái niệm coi hình thái kinh tế - xã hội là một tổng thể những quan hệ sản xuất nhất định, bằng cách xác định rằng sự phát triển của những hình thái đó là một quá trình lịch sử - tự nhiên"[2]. Mặc dù Mác không tự xem mình là nhà xã hội học, nhưng các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đều coi Mác là nhà xã hội học vĩ đại của thế kỷ XIX. "C.Mác đã cung cấp cho xã hội học và chính trị học hiện đại một trong những tiếp cận lý thuyết bao quát và mạnh mẽ nhất"[3]. Trong di sản tư tưởng của Mác, xã hội học mác xít có thể tiếp cận nghiên cứu sự biến đổi xã hội dựa  trên một số luận điểm của Mác trình bày trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

1. Nhân tố quan trọng nhất tạo nên sự biến đổi xã hội là hoạt động sản xuất vật chất, suy cho cùng là sự phát triển về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Có thể khẳng định rằng, với học thuyết hình thái kinh tế xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử triết học và xã hội học, Mác đã đưa ra cách giải thích thực sự khoa học về nguồn gốc, động lực, nguyên nhân của sự biến đổi xã hội. Mác cho rằng, biến đổi xã hội là một thuộc tính phổ biến của mọi xã hội.

Hoạt động sản xuất vật chất của con người là cơ sở, nguồn gốc, nguyên nhân quyết định nhất tới sự biến đổi xã hội. Mác là người đầu tiên phát hiện và nói lên một sự thật hiển nhiên, cái sự thật luôn luôn bị bưng bít và xuyên tạc bởi những thế lực bảo thủ ôm ấp những mục đích đen tối rằng: "trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học..."[4]. Trong nhiều tác phẩm Mác đã chứng tỏ rằng, chính hoạt động thực tiễn của con người tạo nên xã hội và làm thay đổi bộ mặt xã hội, rằng mọi sự giải thích về sự biến đổi xã hội nếu tách rời hoạt động sản xuất vật chất, tất yếu dẫn đến nguỵ biện, chủ quan. Mác đã viết trong tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học" rằng: "Những quan hệ sản xuất đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do đó được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp"[5]. Trong khi trình bày luận điểm khoa học của mình, Mác cực lực phê phán những quan niệm phản tiến bộ trong việc  giải thích sự biến đổi, phát triển của xã hội, ông cảnh cáo rằng: "Cho đến nay, người ta vẫn coi bạo lực, chiến tranh, cướp bóc, giết người và ăn cướp... là những động lực của lịch sử"[6]. Điều đáng chú ý là, trong quá trình nhấn mạnh vai trò quan trọng quyết định của sản xuất vật chất - của yếu tố kinh tế, Mác tuyệt nhiên không tuyệt đối hoá vai trò của nó đối với tiến trình phát triển xã hội. Theo Mác có nhiều nhân tố khác cũng tác động đến quá trình biến đổi xã hội như: môi trường tự nhiên; cơ cấu dân số; đặc trưng văn hoá... Quan điểm này biểu hiện trong việc Mác phân tích mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất; giữa kiến trúc tượng tầng với cơ sở hạ tầng; giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội.

Như vậy, theo lý luận Mác,  có nhiều nhân tố gây nên sự biến đổi xã hội, trong đó, xét cho cùng, nhân tố quan trọng nhất, quyết định nhất là trình độ phát triển của sản xuất vật chất, hay cụ thể hơn, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Trái ngược với Mác, các nhà xã hội học tư sản, khi lý giải về nguyên nhân của sự biến đổi xã hội, họ thường không coi trọng các nguyên nhân từ sản xuất vật chất, từ nền kinh tế, mà họ có xu hướng coi trọng các nguyên nhân, động lực về văn hoá, về chính trị, tinh thần A.Comte [1798 - 1857]- nhà xã hội học người Pháp thế kỷ XIX, cho rằng: động lực thúc đẩy sự biến đổi xã hội chính là trí thức, trí tuệ và văn hoá. Ông cho rằng, thực chất của sự biến đổi xã hội là sự tiến hoá của các sức mạnh tư tưởng, trí tuệ, tinh thần xã hội. Đứng trên lập trường của giai cấp tư sản, ông cho rằng, sự vận động, biến đổi của xã hội tuân theo quy luật tiến hoá, bởi thế không cần có đấu tranh xã hội và cách mạng xã hội. Comte lập luận rằng: nếu văn hoá, tri thức, đạo đức là động lực thúc đẩy xã hội biến đổi, thì chính các yếu tố này cũng là chất keo kết dính chống lại sự phân rã xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định. Để làm được điều đó, theo ông cần tăng cường vai trò của nhà nước [nhà nước tư bản] đương thời. Trong khi Mác vạch rõ cơ chế vận động của xã hội, thông qua phân tích hoạt động sản xuất vật chất, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì A.Comte hoàn toàn không chú ý đến yếu tố kinh tế và mâu thuẫn giai cấp, mà chỉ nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước tư sản trong việc điều hoà, củng cố sự liên kết xã hội. Durkheim [1858 -1917] - nhà xã hội học người Pháp - cho rằng, các giá trị xã hội, chuẩn mực, vai trò, địa vị và các yếu tố tinh thần khác tạo nên nền văn hoá xã hội. Văn hoá và tôn giáo không phải là sự phản ánh của các trật tự xã hội, mà nó có quá trình sinh thành riêng và tạo thành trật tự đạo lý xã hội. Trật tự đạo lý xã hội  là nguồn gốc của các hoạt động xã hội  khác, là quy luật phổ biến để duy  trì trật tự xã hội và là động lực của sự tiến hoá xã hội[7]. M.Weber [1864 - 1920] - nhà xã hội học người Đức, cho rằng, sự hình thành và phát triển xã hội tư bản là quá trình hình thành hành động hợp lý. Xã hội tư bản ra đời do quá trình hình thành hành động hợp lý của các cá nhân mà nguồn gốc của nó là tri thức khoa học kết hợp với ý thức [động cơ] cao cả của đạo Tin lành. Thực chất, cũng giống như Comte và Durkheim, Weber đặc biệt đề cao vai trò của văn hoá trong sự biến đổi xã hội.

Xã hội học được coi là một khoa học của xã hội hiện đại, rất cần cho các quá trình nhận thức, quản lý, dự báo xã hội. Do những chức năng quan trọng đó, nghiên cứu xã hội học không cho phép mơ hồ về lập trường và phương pháp luận. Mọi nghiên cứu xã hội học cần có tính đảng, tính giai cấp và phục vụ  cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Thực tế cho thấy, nếu các nghiên cứu xã hội học không quan tâm đến vấn đề lập trường thì nhiều khi sẽ rất tai hại. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà xã hội học kinh điển của nền xã hội học tư sản như Comte, Durkheim đều phớt lờ vấn đề mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn giai cấp xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà cả Comte, Durkheim, Weber đều ra sức ca ngợi vai trò của nhà nước tư bản, đều mong muốn có một "trật tự đạo lý", hay "sự đồng thuận xã hội" để né  tránh vấn đề đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Phân tích về sự biến đổi xã hội theo lý luận của Mác, đòi hỏi một sự phân tích triệt để, bắt đầu từ sự phân tích hoạt động sản xuất vật chất, từ những quan hệ kinh tế xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Do vậy, nghiên cứu về biến đổi xã hội nếu không phân tích sự tác động quyết định của hoạt động sản xuất, tất yếu rơi vào chủ nghĩa duy tâm dưới góc độ triết học, hay chủ quan và ngụy biện dưới góc độ xã hội học. Mác đã khẳng định một lập trường dứt khoát rằng: "Nếu ta không thể nhận định về một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất và những quan hệ sản xuất xã hội"[8].

2. Phương pháp sản xuất được coi là tiêu chí khoa học nhất để phân loại các hình thái xã hội trong tiến trình biến đổi của nó. Khi nghiên cứu giải thích về sự biến đổi xã hội, tất yếu phải bàn đến sự phân kỳ lịch sử và phân loại xã hội. Việc phân chia các giai đoạn phát triển của xã hội theo các tiêu chí khác nhau đã làm xuất hiện các trường phái khác nhau trong triết học và xã hội hiện đại. Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội, Mác đã phân chia tiến trình phát triển xã hội loài người  thành 5 giai đoạn: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Theo Mác, tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt các hình thái kinh tế xã hội là phương thức sản xuất. Mác đã viết rằng: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào"[9]. Mác lập luận rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn quan trọng nhất, chỉ rõ tính chất của các kiểu xã hội khác nhau. Mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều được đặc trưng bởi một quan hệ sản xuất tương ứng với một tính chất và trình độ của lượng sản xuất; một kiến trúc thượng tầng với một cơ sở hạ tầng tương ứng. Theo quan niệm của Mác, biến đổi xã hội thực chất và trước hết là sự biến đổi của nền sản xuất vật chất, đó chính là sự biến đổi trung tâm quan trọng nhất quyết định sự biến đổi xã hội. Các giai đoạn xã hội khác nhau là khác nhau về trình độ sản xuất, khác nhau về cơ cấu kinh tế, dẫn đến sự khác nhau về cơ cấu xã hội. Trong lộ trình biến đổi xã hội, biến đổi về cơ cấu kinh tế kéo theo biến đổi về cơ cấu xã hội  và biến đổi hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội. Lôgic của sự biến đổi đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt phương pháp luận khi nghiên cứu biến đổi xã hội. Qúa trình phân loại xã hội  nếu ta chỉ dừng lại ở việc mô tả không tính đến các yếu tố kinh tế thì không thể hiểu rõ được cội nguồn, cơ sở quan trọng nhất quyết định sự khác nhau giữa các chế độ xã hội, các loại hình xã hội. Lênin trong khi bảo vệ các luận điểm của Mác trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội, cũng đã viết rằng: "Việc phân tích những quan hệ xã hội vật chất khiến cho chúng ta có thể nhận thấy ngay được tính lặp lại và tính đều đặn, và có thể đem những chế độ của các nước khác nhau khái quát thành một khái niệm duy nhất là: hình thái xã hội. Chỉ có sự khái quát mới cho phép chuyển từ việc mô tả [và từ việc đánh giá theo quan điểm lý tưởng] những hiện tượng xã hội đó một cách hết sức khoa học để vạch ra, chẳng hạn chỗ phân biệt giữa một nước tư bản chủ nghĩa này  với một nước tư bản chủ nghĩa khác, và để nghiên cứu chỗ giống nhau giữa các nước tư bản chủ nghĩa đó"[10].

Các nhà xã hội học kinh điển trong các tác phẩm của mình, đều đề cập đến sự phân loại xã hội, nhưng tiêu chí phân loại của họ hoàn toàn khác với Mác, thậm chí ngược lại với Mác.A.Comte cho rằng, xã hội loài người vận động, biến đổi qua ba giai đoạn: mông muội, siêu hình và thực chứng. Tiêu chí để phân biệt các giai đoạn phát triển của xã hội là trình độ nhận thức và trí tuệ của con người. Nhà xã hội học người Anh, H.Spencer [1820-1903] phân chia xã hội thành hai loại hình: xã hội quân sự và xã hội công nghiệp, cái mà Spencer quan tâm là sự cố kết giữa cá nhân và xã hội ở các loại hình xã hội khác nhau. Durkheim cho rằng: kiểu đoàn kết xã hội mới là tiêu chí để phân biệt các loại hình xã hội. Ông cho rằng, xã hội truyền thống mới đặc trưng bởi đoàn kết cơ học, xã hội hiện đại dựa trên cơ sở đoàn kết hữu cơ. Xu hướng chung, các nhà xã hội học tư sản khi phân loại đều không chú ý đến yếu tố sản xuất vật chất, yếu tố kinh tế, cái mà trên thực tế là cội nguồn, nền tảng quy định sự khác nhau của các giai đoạn phát triển của xã hội hay các loại hình xã hội.

So sánh cách phân loại của Mác với các nhà xã hội học khác, chúng ta thấy rằng, sự phân loại của Mác có tính khái quát hơn, và sự khái quát đó là sự khái quát ở tầm triết học. Cách phân loại của các nhà khoa học khác cũng có giá trị và cơ sở khoa học, do vậy, cần phải tiếp thu trong các nghiên cứu xã hội học về biến đổi xã hội. Tuy nhiên, sự tiếp thu có chọn lọc đó phải đứng vững trên lập trường, phương pháp luận xã hội học mác xít. Thực tiễn đã chứng tỏ, những luận điểm khoa học Mác trình bày trong học thuyết hình thái kinh tế xã hội thực sự là cơ sở lý luận, phương pháp luận cho việc phân tích một cách khoa học nhất, thuyết phục nhất về sự biến đổi rất phức tạp của xã hội hiện đại./.

__________________________________

[1] Giáo trình Triết học Mác – Lênin, 1999, Nxb CTQG, H., tr.460.

[2] V.Lênin, Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao?, 1974, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, tr.24.

[3] Tony Bilton [chủ biên], Nhập môn xã hội học, 1993, Nxb KHXH, H., tr.56.

[4] C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, 1997, Nxb CTQG, H., T.19, tr.32.

[5] C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, 1995, Nxb CTQG, H., T.4, tr.1987.

[6] Sđd, T.3, tr.32.

[7] Xem: Phan Trọng Ngọc [chủ biên], Xã hội học đại cương, 1997, Nxb CTQG, H., tr.28.

[8] Sđd, T.13, tr.15.

[9] Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, 1995, Nxb CTQG, H., T.23, tr.269.

[10] V.Lênin, Những  "người bạn dân..." Sđd, tr21.


Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 6 [tháng 11+12]/2005

  • 1 Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương thăm và làm việc tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
  • 2 Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương làm việc với Tỉnh ủy Hà Tĩnh
  • 3 Mạch nguồn số 3: Tháng Năm nhớ Bác
  • 4 Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị Quân chính toàn quân 6 tháng đầu năm 2022
  • 5 Đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tri ân các anh hùng liệt sỹ và tặng quà người có công ở Hà Tĩnh
  • 6 "Quan tâm, chăm sóc các đồng chí thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sĩ và người có công với đất nước luôn là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta"

Chiều ngày 22.7.2022, thực hiện kế hoạch công tác tại Hà Tĩnh, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cùng Đoàn công tác đã có buổi làm việc với Tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh về tình hình, kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ tư [khóa XIII]; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và triển khai Quy định số 11-QĐ/TW của Ban Bí thư.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu nổi bật, vĩ đại của trí tuệ loài người về lý luận phát triển xã hội. Từ khi ra đời đến nay, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, bất chấp sự chống phá điên cuồng của kẻ thù, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn khẳng định sức sống mãnh liệt và giá trị thời đại lớn lao trên phạm vi toàn thế giới.

Với nhiệt huyết cách mạng và sự sáng tạo lý luận không ngừng, V.I.Lênin đã biến lý tưởng và những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học trở thành hiện thực, giải đáp được những vấn đề cơ bản nhất mà thời đại đặt ra, góp phần cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình - lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng loài người trên phạm vi thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại gắn liền với tên tuổi V.I.Lênin - người thầy của cách mạng vô sản, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.

Vấn đề ý thức xã hội là một nội dung quan trọng của triết học Mác - Lênin. Việc tìm hiểu sâu sắc vấn đề này có ý nghĩa rất lớn đối với nhiệm vụ xây dựng ý thức xã hội mới, từ đó góp phần vào thành công của quá trình xây dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Học thuyết lợi nhuận được C.Mác trình bày trong bộ “Tư bản” là sự kết tinh giá trị khoa học và cách mạng cốt lõi nhất trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường và khẳng định giá trị khoa học, cách mạng và tính thời đại của học thuyết lợi nhuận của C.Mác, góp phần khẳng định và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường CNXH.

XEM THÊM TIN

Video liên quan

Chủ Đề