Hồng cầu lưới ký hiệu là gì

Máu người bao gồm nhiều loại tế bào, nhưng hồng cầu chiếm số lượng nhiều nhất. Vì các tế bào hồng cầu chỉ sống được khoảng 4 tháng, nên cơ thể sẽ liên tục tạo ra những tế bào mới, được gọi là hồng cầu lưới – giai đoạn đầu [1-2 ngày] của các tế bào hồng cầu trưởng thành. Bạn cũng có thể hiểu đơn giản rằng hồng cầu lưới là hồng cầu chưa trưởng thành. Thành phần này chiếm tỷ lệ khoảng 0,5 – 1,5% số hồng cầu trong máu ngoại vi. Xét nghiệm hồng cầu lưới được bác sĩ thực hiện để đo mức độ [số lượng] hồng cầu lưới trong máu.

Xét nghiệm sẽ giúp bác sĩ biết mức độ sản xuất hồng cầu cũng như đánh giá hoạt động của tủy xương [mô bên trong xương chịu trách nhiệm tạo tế bào máu]. Từ đó, bác sĩ có thể chẩn đoán nhiều tình trạng khác nhau, chẳng hạn như thiếu máu và suy tủy.

Khi nào bạn cần làm xét nghiệm hồng cầu lưới?

Xét nghiệm hồng cầu lưới được chỉ định khi bác sĩ cần nắm tình trạng hoạt động của tủy xương hoặc chẩn đoán và phân biệt các loại bệnh thiếu máu khác nhau. Nếu người bệnh thường xuyên cảm thấy mệt mỏi, thiếu năng lượng, xanh xao, khó thở, đau đầu, đau ngực, rất có thể đó là triệu chứng của thiếu máu mạn tính.

Xét nghiệm này cũng có thể được sử dụng để theo dõi tiến trình điều trị sau hóa trị, xạ trị, ghép tủy xương hoặc thiếu máu do thiếu sắt. Kết quả sẽ giúp bác sĩ có định hướng điều chỉnh lại cho phù hợp với người bệnh. Đôi khi, xét nghiệm hồng cầu lưới cũng là 1 mục trong xét nghiệm công thức máu toàn phần [CBC].

Điều cần thận trọng

Xét nghiệm hồng cầu lưới có nguy hiểm không?

Để xét nghiệm hồng cầu lưới, người bệnh sẽ được trích máu. Nhìn chung đây là một thủ thuật phổ biến và an toàn cho hầu hết mọi người. Tuy nhiên, người bệnh có thể cảm thấy hơi đau hoặc chảy máu và bầm tím tại vị trí lấy mẫu máu. Trong những trường hợp hiếm gặp hơn, một số rủi ro có thể xảy ra như:

  • Ngất xỉu
  • Mất nhiều máu
  • Tụ máu
  • Nhiễm trùng da
  • Viêm tĩnh mạch

Quy trình thực hiện

Trước khi thực hiện

Xét nghiệm hồng cầu lưới không yêu cầu chuẩn bị đặc biệt. Tuy nhiên, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện một số bước nhất định trước khi lấy mẫu máu của người bệnh. Người bệnh có thể cần nhịn ăn uống hay tránh sử dụng một số loại thuốc, chẳng hạn như thuốc làm loãng máu [chống đông máu]. Hãy thông báo cho bác sĩ nếu có tiền sử băng huyết, ngất xỉu hoặc bất kỳ tình trạng sức khỏe nào cũng như các loại thuốc [kê toa và không kê toa] đang dùng.

Trong khi thực hiện

Bác sĩ, y tá hoặc kỹ thuật viên sẽ lấy mẫu máu của người bệnh để xét nghiệm. Vị trí phổ biến nhất để trích máu là từ tĩnh mạch ở khuỷu tay trong hoặc trên mu bàn tay của người bệnh.

Trong một số trường hợp, người bệnh có thể không cần rút máu bằng kim. Thay vào đó, người bệnh sẽ được lấy máu ở đầu ngón tay. Kỹ thuật này thường nhanh và ít đau đớn hơn, cũng như cần ít lượng máu hơn.

Đối với trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ, thay vì sử dụng kim để trích máu, bác sĩ có thể tạo một vết cắt nhỏ trên da [thường ở vị trí gót chân] và lấy mẫu rồi băng lại nếu cần.

Sau khi thực hiện

Người bệnh có thể quay về trong ngày nếu không có chỉ định đặc biệt từ bác sĩ. Mẫu máu sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm để xét nghiệm. Thông thường, số lượng hồng cầu lưới được đếm bằng một công cụ tự động [máy phân tích huyết học].

Kết quả của xét nghiệm

Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.

Kết quả của xét nghiệm hồng cầu lưới là gì?

Kết quả của xét nghiệm hồng cầu lưới cần được giải thích cẩn thận và kết hợp với kết quả từ các xét nghiệm khác. Những điều bạn cần quan tâm về kết quả là số lượng hồng cầu trong 1 thể tích máu [RBC], huyết sắc tố – hemoglobin [Hb], hematocrit – tỷ lệ thể tích hồng cầu trên thể tích máu toàn phần [Hct] hoặc xét nghiệm máu tổng quát [CBC].

Kết quả xét nghiệm hồng cầu lưới được tính bằng đơn vị số lượng hoặc tỷ lệ phần trăm. Nếu tính bằng phần trăm với ký hiệu hồng cầu lưới là RET, công thức sẽ là %RET = [RET/ số lượng hồng cầu toàn phần] x100. Phạm vi tham chiếu hoặc kết quả bình thường của tỷ lệ hồng cầu lưới ở người trưởng thành khỏe mạnh là 0,5 -1,5%. Phạm vi này sẽ cao hơn nếu hemoglobin thấp, do bị xuất huyết hoặc các tế bào hồng cầu bị phá hủy. Kết quả xét nghiệm hồng cầu lưới có thể khác nhau tùy vào quy trình, điều kiện của phòng xét nghiệm cũng như nồng độ hemoglobin trong máu.

Ý nghĩa kết quả của xét nghiệm hồng cầu lưới

Nếu số lượng hồng cầu lưới cao với các chỉ số RBC, Hb, Hct thấp, đó có thể là một dấu hiệu của:

  • Xuất huyết cấp tính. Khi bị chảy máu [xuất huyết], số lượng hồng cầu lưới sẽ tăng lên một vài ngày sau đó nhằm bù đắp cho số tế bào hồng cầu đã thất thoát.
  • Thiếu máu mạn tính
  • Chứng thiếu máu tán huyết. Do sự phá hủy hồng cầu gia tăng, tủy xương tăng sản xuất hồng cầu để bù đắp, dẫn đến số lượng hồng cầu lưới cao.
  • Tan máu bẩm sinh ở trẻ sơ sinh – một bệnh về rối loạn máu có thể gây tử vong ở trẻ

Số lượng hồng cầu lưới thấp với các chỉ số RBC, Hb, Hct thấp có thể chỉ ra những bệnh như:

  • Thiếu máu do thiếu sắt
  • Thiếu máu không tái tạo [thiếu máu bất sản]
  • Thiếu axit folic
  • Thiếu vitamin B12
  • Suy tủy xương do độc tính của thuốc, nhiễm trùng hoặc ung thư
  • Bệnh thận
  • Xơ gan
  • Bệnh nội tiết
  • Tác dụng phụ của hóa trị hoặc xạ trị

Xét nghiệm hồng cầu lưới có thể cho thấy dấu hiệu của một bệnh hoặc tình trạng sức khỏe nhưng không chẩn đoán trực tiếp bất kỳ bệnh cụ thể nào. Bác sĩ có thể đề xuất các xét nghiệm bổ sung nhằm đưa ra chẩn đoán chính xác hơn để có phác đồ điều trị phù hợp.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.

Blog Điều Trị không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.

Các bài viết của Blog Điều Trị chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Bạn có thể quan tâm đến chủ đề:

  • [Hỏi đáp bác sĩ] Trẻ bị thiếu máu có nguy hiểm không?
  • Những triệu chứng thiếu máu bạn không thể bỏ qua

Hồng cầu lưới là các hồng cầu non mới được giải phóng từ tuỷ xương ra máu ngoại vi. Sự xuất hiện Ret ở máu ngoại vi, là chỉ điểm [marker] cho thấy quá trình tạo hồng cầu có hiệu quả. Sự tạo hồng cầu có hiệu quả cho thấy, tuỷ xương phản ứng tốt với tình trạng thiếu máu.

Hồng cầu lưới là các hồng cầu non mới được giải phóng từ tuỷ xương ra máu ngoại vi. Sự xuất hiện Ret ở máu ngoại vi, là chỉ điểm [marker] cho thấy quá trình tạo hồng cầu có hiệu quả. Sự tạo hồng cầu có hiệu quả cho thấy, tuỷ xương phản ứng tốt với tình trạng thiếu máu. Có mối tương quan giữa tăng tổng hợp và giải phóng Ret từ tuỷ xương ra máu ngoại vi, khi có tình trạng thiếu máu.

Có thể dễ dàng xác định được Ret ở máu ngoại vi bằng cách nhuộm máu tươi với thuốc nhuộm xanh methylene [hoặc có thể dùng xanh cresyl]. Đặc điểm Ret sau nhuộm: Có những sợi ARN mảnh như sợi chỉ, nằm trong bào tương của các hồng cầu non.

Sau 24 giờ ở máu ngoại vi, hồng cầu lưới sẽ "chín" và trở thành hồng cầu trưởng thành. Sự trưởng thành xảy ra được là nhờ sự giúp đỡ của đại thực bào ở lách. Số lượng hồng cầu lưới [reticulocyte count] là tính ra tỷ lệ % hồng cầu lưới so với hồng cầu trưởng thành ở máu ngoại vi [bình thường < 3%] [chỉ số này ở VN là 0.6-1.8%]. Việc sử dụng tỷ lệ % hồng cầu lưới [%Ret] để đánh giá thiếu máu LÀ SAI LẦM, bởi nó sẽ cho ra một kết quả TĂNG GIẢ TẠO

Ví dụ: - Trường hợp bình thường: hồng cầu lưới 3 , hồng cầu trưởng thành 100 ==> %Ret = 3/100 = 3% - Trường hợp thiếu máu: hồng cầu lưới 3, hồng cầu trưởng thành 30 ===> %Ret = 3/30=10% [ tăng giả tạo %Ret]

Do vậy, tỷ lệ % hồng cầu lưới [%Ret] phải được hiệu chỉnh để phù hợp mức độ thiếu máu. - Như vậy, ta có CHỈ SỐ HỒNG CẦU LƯỚI THỰC [corrected reticulocyte count-CRC]

Trong đó: Retic. count - số lượng hồng cầu lưới đếm được Pt. Hct - %Hct của bệnh nhân
Ví dụ: Bệnh nhân nam giới, có Hct 15%, Ret 18% Hct bệnh nhân = 15% %Ret [hồng cầu lưới đếm được]=18% ===> CRC = 15/45 x 18 = 6%

Nếu trong máu ngoại vi xuất hiện Hồng cầu đa sắc [RBC polychromasia], thì đòi hỏi phải hiệu chỉnh thêm %CRC. Hồng cầu đa sắc là những hồng cầu còn non hơn cả hồng cầu lưới. Chỉ xuất hiện ở máu ngoại vi, khi cơ thể đang có 1 tình trạng thiếu máu tan máu rất cấp tính. Phải sau khoảng 2-3 ngày mới trở thành hồng cầu trưởng thành. Ban đầu có SỰ TĂNG GIẢ TẠO SỐ LƯỢNG HỒNG CẦU LƯỚI, bởi vì các hồng cầu đa sắc cũng có các mảnh RNA trong bào tương, nên được đếm nhầm thành hồng cầu lưới. Mục đích của đếm hồng cầu lưới là đánh giá xem tuỷ xương phản ứng như thế nào trước tình trạng thiếu máu của cơ thể trong 24h đầu tiên. Vì vậy, việc xuất hiện thêm các hồng cầu đa sắc sau 2-3 ngày mới trưởng thành có thể khiến đánh giá sai lầm khả năng phản ứng của tuỷ xương.

Để tính CHỈ SỐ HỒNG CẦU LƯỚI THỰC KHI XUẤT HIỆN HỒNG CẦU ĐA SẮC [Polychromasia], ta lấy Chỉ số hồng cầu lưới thực ban đầu [CRC original] chia cho 2.

Ví dụ: Khi có hồng cầu đa sắc xuất hiện máu ngoại vi, cho kết quả CRC ban đầu là 6%, như vậy Chỉ số hồng cầu lưới thực ở đây phải là 6/2=3% [CRC=3% chứng tỏ tuỷ xương vẫn phản ứng tốt với tình trạng thiếu máu]

KHI CHỈ SỐ HỒNG CẦU LƯỚI THỰC CRC  ≧ 3% Cho thấy tuỷ xương phản ứng tốt với tình trạng thiếu máu [quá trình sinh sản hồng cầu có hiệu quả]. Ví dụ về sinh máu có hiệu quả: Thiếu máu tan máu [bệnh hồng cầu hình liềm HbS]; sau điều trị thiếu máu thiếu sắt bằng bổ sung sắt ===> chỉ số hồng cầu lưới thực tăng.

KHI CHỈ SỐ HỒNG CẦU LƯỚI THỰC CRC < 3% Chỉ ra tuỷ xương phản ứng kém với tình trạng thiếu máu, quá trình sinh sản hồng cầu không hiệu quả. Ví dụ sinh máu kém hiệu quả: thiếu máu thiếu Fe không điều trị; thiếu máu mạn tính; thiếu folate [B9]; suy tuỷ xương.

Lê Văn Công

Nguồn tham khảo: Rapid Review Pathology 4th Edition

👉👉 Để xem được các video và bài viết mới nhất của chúng tôi, hãy đăng ký kênh theo địa chỉ: 🎬 Youtube: 📡Địa chỉ webbsite: 🖱Địa chỉ fanpage: 📕Hiệu sách:

Video liên quan

Chủ Đề