Kiểu nhà nước nào xuất hiện sớm nhất

1.C. xuất hiện chế độ tư hữu TLSX.

2.B. do ý chí của giai cấp thống trị.

3.D. tư bản chủ nghĩa.

4.D. Tư bản chủ nghĩa.

5.A. Giai cấp công nhân

6.C. công nhân, nông dân và trí thức.

7.B. trấn áp các giai cấp đối kháng.

8.A. nhân dân và dân tộc.

9.C. đảng viên, cán bộ công chức Nhà nước

10. D. Pháp luật.

11.D. chủ trương.

12.D. chủ trương.

13.C. chính sách. 

14. A. Đảng Cộng sản.

15.D. phe phái.Thông hiểu

16.B. Phong kiến

17.A. nhà nước có được là thành quả cách mạng của quần chúng nhân dân lao động.

18.C. Thể hiện ý chí của nhân dân.

19.A. chức năng của nhà nước pháp quyền nước ta

20.A. chức năng của nhà nước pháp quyền nước ta

Tổng hợp kiến thức về Các kiểu nhà nước trong lịch sử đầy đủ, chi tiết, giúp bạn đọc mở rộng kho tàng tri thức về Các kiểu nhà nước trong lịch sử.

Tương ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó, có bốn kiểu nhà nước. Cụ thểcác kiểu nhà nước trong lịch sửgồm:

+ Kiểu nhà nước chủ nô;

+ Kiểu nhà nước phong kiến;

+ Kiểu nhà nước tư sản;

+ Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.

1. Kiểu nhà nước chủ nô

Kiểu nhà nước chủ nô là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liền với sự xuất hiện của chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Trong kiểu nhà nước chủ nô giai cấp thống trị xã hội là chủ nô.

Cơ sở hình thành của nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của giai cấp chủ nô với tư liệu sản xuất và nô lệ. Bản chất của nhà nước chủ nô là thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô; đàn áp nô lệ và tầng lớp lao động khác.

Hình thức của nhà nước chủ nô rất đa dạng. Do sự hình thành và phát triển của các nhà nước chủ nô trong những hoàn cảnh, điều kiện hết sức khác nhau nên việc tổ chức và thực hiện quyền lực ở mỗi nước có rất nhiều khác biệt, ở mỗi thời kỳ phát triển của đất nước cũng có nhiều thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của chế độ nô lệ.

Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, các Nhà nước chủ nô đều thiết lập, củng cố cho mình một bộ máy nhà nước mang nặng tính quân sự và tập trung quan liêu. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy nhà nước chủ nô là trấn áp nô tệ trong nước, xâm lược các nước khác, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nô, cưỡng bức nô lệ làm giàu cho giai cấp chủ nô. Bộ máy nhà nước chủ nô giai đoạn đầu rất đơn giản, chỉ gồm rất ít các cơ quan. Cùng với sự phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ, nhu cầu quản lý xã hội tăng dần đòi hỏi bộ máy nhà nước chủ nô phát triển, phức tạp hơn, hoàn thiện hơn. Nhiều Nhà nước chủ nô đã thiết lập ra những bộ máy nhà nước khá hoàn thiện và phát triển như bộ máy Nhà nước Aten, Nhà nước La Mã… Trong những bộ máy nhà nước này đã có sự chuyên môn hoá tương đối cao.

2. Kiểu nhà nước phong kiến

Nhà nước phong kiếnlà kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, là nhà nước phát triển cao hơn nhà nước chiếm hữu nô lệ.

Về thời gian, chế độ phong kiến phương Đông hình thành sớm nhất ở Trung Quốc từ thế kỷ III trước công nguyên. Còn ở phương Tây, nhà nước phong kiến hình thành sớm nhất là thế kỷ V sau công nguyên [Tây Âu].

Về mặt không gian, ở phương Tây, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển của chế độ phong kiến và nhà nước phong kiến.

3. Kiểu nhà nước tư sản

Nhà nước phong kiếnlà kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, là nhà nước phát triển cao hơn nhà nước chiếm hữu nô lệ.

Về thời gian, chế độ phong kiến phương Đông hình thành sớm nhất ở Trung Quốc từ thế kỷ III trước công nguyên. Còn ở phương Tây, nhà nước phong kiến hình thành sớm nhất là thế kỷ V sau công nguyên [Tây Âu].

Về mặt không gian, ở phương Tây, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển của chế độ phong kiến và nhà nước phong kiến.

Cũng như các kiểu nhà nước tồn tại trước đó, nhà nước tư sản là một nhà nước có giai cấp, đồng thời, là người đại diện chính thức của toàn xã hội đảm đương các chức năng công ích, xã hội; là bộ máy duy trì trật tự xã hội, điều hoà các mối quan hệ xã hội chung của cả cộng đồng dân cư của quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, do nhà nước tư sản hình thành trên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn, trong giai đoạn nền văn minh nhân loại phát triển cao hơn, vì vậy, tính xã hội của nhà nước tư sản cũng phát triển sâu rộng hơn.

Nhà nước tư sản có các đặc điểm cơ bản sau đây: thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân; cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiểm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống: hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hoà [cộng hoà tổng thống, cộng hoà nghị viện, cộng hoà lưỡng tính] và quân chủ lập hiến [quân chủ nghị viện].

Có thể nói, nhà nước tư sản đang tự hoàn thiện để thích nghi với điều kiện mới. Từ chỗ là công cụ chủ yếu phục vụ giai cấp tư sản, nhà nước tư sản dần dần trở thành công cụ tổ chức và quản lí có hiệu quả các mặt của đời sống xã hội, đảm bảo các quyền, tự do của con người, đảm bảo dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, dù phát triển đến giai đoạn nào, dù cố gắng cải biến đến đâu, nhà nước tư sản vẫn còn rất nhiều hạn chế, chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn còn đầy rẫy những bất công. Theo báo cáo Global Wealth của Cresit Suisse, một phần trăm những người giàu có nhất thế giới hiện đang sở hữu tới một nửa khối tài sản toàn cầu, cùng với đó khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo lại tăng lên.1 Chính vì vậy, theo quy luật phát triển của xã hội, nhà nước tư sản phải bị thay thế bởi kiểu nhà nước mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa.

4. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa

Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra qua đó nhân dân thực hiện quyền và lợi ích của mình. Trong kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa giai cấp thống trị xã hội là nhân dân lao động. Đây cũng là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người, ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.

Cơ sở hình thành của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

Các đặc điểm cơ bản của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là: thiết lập và đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; tất cả các cơ quan nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo sự đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc.

Hình thức phổ biến là chính thể cộng hòa dân chủ.

Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới là Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên, Nhà nước Xume [Sumer] cổ đại [vùng vịnh Pecxich] xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân của chủ nô về tư liệu sản xuất và nô lệ. Xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp cơ bản và có sự mâu thuẫn đối kháng là chủ nô và nô lệ. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng hoá mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội. Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten [Hy Lạp] còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Sự ra đời, quá trình phát triển của các kiểu nhà nước chủ nô theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênỉn

Ở phương Tây, quá trình biến đổi của xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước chủ nô diễn ra tương đối nhanh chóng, sở hữu tư nhân phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt. Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó là lực lượng dân tự do [giới bình dân]. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết. Cơ sở kinh tế xã hội của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước cũng như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô.

Hiện nay, quan điểm về sự phân chia kiểu đối với các nhà nước phương Đông chưa có sự thống nhất. Ngay cả thời điểm khỏi đầu và thời điểm kết thúc của kiểu nhà nước đầu tiên ở khu vực này hiện cũng còn tranh luận. Các nhà nước phương Đông xuất hiện tương đối sớm so với các nhà nước phương Tây, trong điều kiện lực lượng sản xuất còn tương đối thấp kém, quá trình biến đổi của xã hội dẫn tới việc hình thành nhà nước khá chậm chạp và kéo dài. Nhà nước xuất hiện nhưng công xã nông thôn [công xã láng giềng], tàn tích của chế độ thị tộc vẫn còn tồn tại. Trong một thời gian dài, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ công hữu còn điều kiện để phát triển khá vững chắc với chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm. Quan hệ sản xuất chủ yếu trong xã hội là quan hệ giữa nhà nước với thành viên công xã nông thôn. Nhà nước là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất nhưng kẻ trực tiếp chiếm hữu ruộng đất là các công xã nông thôn, công xã thay mặt cho nhà nước quản lí ruộng đất và chia cho thành viên trong công xã canh tác để nộp thuế cho nhà nước. Ở những nước này, số lượng nô lệ không nhiều, vai trò của nô lệ trong nền kinh tế nhìn chung khá hạn chế, nô lệ chủ yếu để hầu hạ phục dịch trong các gia đình quý tộc, quan lại hoặc thực hiện những công việc chung của công xã và nhà nước. Địa vị của nô lệ không đến nỗi thấp kém như ở các nước phương Tây, nô lệ có thể có gia đình riêng, có khi còn được coi như thành viên trong gia đình. Bộ phận đông đảo nhất trong xã hội là thành viên công xã nông thôn, họ là những người tự do, được công xã định kì chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước. Như vậy, mặc dù có thể xếp vào cùng một kiểu, nhưng các nhà nước ở phương Đông và phương Tây có khá nhiều điểm khác biệt. Có thể nói, chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Đông nhìn chung chưa phát triển và mang nhiều đặc trưng của chế độ nô lệ gia trưởng.

Mặc dù có rất nhiều hạn chế, tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, không thể phủ nhận được ý nghĩa lịch sử của nhà nước chủ nô. Dù sao, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước chủ nô cũng là bước tiến của lịch sử nhân loại, nó tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá... của các xã hội sau này. Đúng như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:

“Không có chế độ nô ỉệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có che độ nô lệ thì không có Đe chế La Mã. Mà không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và Đe chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại. Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế, chỉnh trị và trí tuệ của chủng ta là một trạng thái trong đó chế độ nỏ lệ cũng hoàn toàn cần thiết giống như nó được tất cả mọi người thừa nhận ”.

Trong suốt hàng nghìn năm tồn tại, các nhà nước chủ nô luôn tiến hành các cuộc chiến ữanh liên miên, chinh phạt, thôn tính lẫn nhau dẫn đến nhiều nhà nước bị xoá bỏ, thay vào đó là sự lớn mạnh của một số nhà nước khác. Tuy nhiên, nhà nước chủ nô tồn tại và phát triển trong điều kiện đối kháng gay gắt giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ cho nên nhất định nó phải bị diệt vong, nhường chỗ cho một kiểu nhà nước mới từng bước hình thành, nhà nước phong kiến.

Luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề