Listeria monocytogenes tên tiếng việt là gì

Nhà thuốc Ngọc Anh – Để tải bài viết Nhiễm khuẩn Listeria: Nguyên nhân, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ file PDF xin vui lòng click vào link ở đây.

Tóm tắt

◊ Nhiễm vi khuẩn gram dương ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh, phụ nữ mang thai, người lớn từ trên 45 đến 50 tuổi và người bị suy giảm miễn dịch.

◊ Bệnh chủ yếu do thực phẩm. Biện pháp phòng ngừa bao gồm vệ sinh tay, nấu chín kỹ thức ăn, tránh ăn đồ ăn chưa rửa sạch và thức ăn thừa.

◊ Nhiễm khuẩn huyết, nhiễm trùng huyết, viêm não, áp-xe não, viêm nội tâm mạc và viêm dạ dày ruột là các biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất.

◊ Kết quả nuôi cấy từ các vị trí vô trùng về mặt lâm sàng và kết quả xét nghiệm huyết thanh là điểm mấu chốt để chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.

◊ Ampicillin là loại thuốc được khuyên dùng để điều trị ban đầu cho các biểu hiện toàn thân [không bị viêm dạ dày ruột]. Nếu chỉ bị viêm dạ dày ruột, bệnh thường tự khỏi.

Thông tin cơ bản

Định nghĩa

Bệnh nhiễm listeria là bệnh lây nhiễm do thực phẩm, do trực khuẩn gram dương, không sinh nha bào, di động gây ra. Tỉ lệ mắc mới tương đối thấp ở dân số nói chung.[1]

Dịch tễ học

Có 6 loài Listeria, tuy nhiên chỉ có loài L monocytogenes gây bệnh ở người.[1] [10] [11]Listeria phổ biến trong tự nhiên, và việc ăn phải L monocytogenes tương đối phổ biến.[12] Lây truyền qua nhau thai và lây nhiễm chéo tại các cơ sở chăm sóc trẻ sơ sinh là những đường lây nhiễm khác.[4] Thực phẩm sống từ các nguồn động vật, rau quả, sữa hoặc các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng, thức ăn thừa và phô mai mềm có thể bị nhiễm khuẩn.[7] [12] [13] [14] [15] Có trên 100 đơn vị hình thành khuẩn lạc [CFU]/g Listeria spp. được coi là không đạt yêu cầu, và trong trường hợp này, cần tiến hành xét nghiệm ngay.[16]Listeria có thể được phân lập từ phân của lên tới 5% ở người trưởng thành khỏe mạnh và bệnh có thể truyền từ nhóm người này. Hầu hết các trường hợp đều rải rác và được báo cáo ở các nước có thu nhập cao, trong đó tỷ lệ mắc mới thấp nhưng khả năng tử vong cao; dữ liệu về tỷ lệ mắc mới bệnh nhiễm listeria ở các nước có thu nhập thấp thường không có sẵn.[17] Bệnh nhân khỏe mạnh, không bị suy giảm miễn dịch hiếm khi mắc bệnh lan tỏa, mặc dù bệnh có thể phát triển thành hội chứng viêm dạ dày ruột. Mầm bệnh có xu hướng ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh [dưới 1 tháng tuổi], người lớn [đặc biệt là trên 50 tuổi], phụ nữ mang thai [30% số ca bệnh] và người bị suy giảm miễn dịch [người bị HIV/AIDS, ung thư, bệnh học máu ác tính, bệnh nhân đang điều trị corticosteroid hoặc người nhận tạng ghép].[1] [18] [19] Tình trạng suy giảm miễn dịch tế bào có liên quan đến tỷ lệ mắc mới tăng.

Một nghiên cứu dựa trên bảng câu hỏi từ năm 1990 đến 2007 về bệnh nhiễm listeria ở trẻ sơ sinh tại Đài Loan đã được thực hiện và cho thấy tỷ lệ tử vong là 29%. Kết quả cho thấy bệnh nhiễm listeria có thể trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe ở trẻ sơ sinh tại Đài Loan.[20]

Tổng cộng 150 ca bệnh nhiễm listeria ở người đã được báo cáo tại Áo từ năm 1997 đến 2007. Tỷ lệ mắc mới trung bình trong giai đoạn nghiên cứu là 0,168 ca/100.000 người.[21]

Tỷ lệ mắc mới bệnh nhiễm listeria ở người tại Navarre, Tây Ban Nha từ năm 1995 đến 2005 đã được theo dõi. Các mô hình và đặc điểm dịch tễ học trong phân lập lâm sàng và thức ăn đã được thực hiện. Mặc dù không xác định được loại thực phẩm có liên quan, nghiên cứu kết luận rằng công tác theo dõi bệnh nhiễm listeria tại Tây Ban Nha cần được tăng cường để dự báo tốt hơn gánh nặng bệnh tật và ngăn ngừa bùng phát dịch bệnh do thực phẩm. Phụ nữ mang thai là nhóm lớn nhất bị ảnh hưởng [32,5%].[22]

Dữ liệu vi sinh học và dịch tễ học trên 1933 ca bệnh nhiễm listeria ở người được báo cáo tại Anh và xứ Wales từ năm 1990 đến 2004 đã được xem xét, với tỷ lệ mắc mới tăng đáng kể trong giai đoạn từ 2001 đến 2004. Lý do tăng chưa được xác định, tuy nhiên các ca mắc mới rải rác và chủ yếu ở bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên bị vãng khuẩn huyết. Do đó, nên thường xuyên tư vấn tránh tiêu thụ các loại thực phẩm có nguy cơ cao cho người cao tuổi và bị suy giảm miễn dịch, cũng như phụ nữ mang thai.[23]

Các ca bệnh nhiễm listeria được báo cáo lên Sổ Đăng ký Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Phần Lan từ năm 1995 đến 2004 chủ yếu là người cao tuổi mắc bệnh nền không ác tính; 25% trong số đó đã tử vong do nhiễm bệnh. Chỉ một số ít trường hợp ảnh hưởng đến phụ nữ mang thai hoặc trẻ sơ sinh.[24]

Một khảo sát tại Israel từ năm 1997 đến 2007 về cách ly bệnh nhiễm listeria xâm lấn được xác nhận trong phòng thí nghiệm đã ước tính tỷ lệ mắc bệnh là 4,4 ca trên một triệu người. Tỷ lệ mắc mới bệnh nhiễm listeria xâm lấn cao hơn ở nhóm chu sinh [5,6/100.000] so với nhóm độ tuổi từ 60 trở lên [1,5/100.000].[25]

Tại Liên minh châu Âu, tỷ lệ mắc bệnh nhiễm listeria là 0,6 ca/100.000 người đã được báo cáo năm 2014. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2014, tỷ lệ mắc mới tăng liên tục tại các quốc gia Liên minh châu Âu.[26] Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc mới bệnh nhiễm listeria được xác nhận trong phòng thí nghiệm là 0,24/100.000,[27] và tỷ lệ mắc bệnh nhiễm listeria ở phụ nữ mang thai cao gấp 13 lần so với dân số nói chung.[28] Việc tăng cường theo dõi và thu hồi các sản phẩm có nguy cơ nhiễm bệnh đã giúp giảm 44% tỷ lệ mắc bệnh nhiễm listeria chu sinh tại Hoa Kỳ.[29] Nguy cơ tương đối liên quan đến bệnh nhiễm listeria xâm lấn tại Hoa Kỳ ở nhóm người gốc Latinh cao hơn nhiều so với nhóm dân số còn lại, cả ở nhóm dân số nói chung và phụ nữ mang thai.[30] Trong nhóm phụ nữ gốc Latinh, tỷ lệ mắc mới sơ bộ liên quan đến bệnh nhiễm listeria ở phụ nữ mang thai tăng từ 5,09 ca/100.000 người trong giai đoạn từ 2004 đến 2006 lên 12,37 ca/100.000 người trong giai đoạn từ 2007 đến 2009.[31] Bệnh nhiễm listeria ở phụ nữ mang thai trong nhóm phụ nữ không thuộc gốc Latinh cho thấy mức tăng tỷ lệ mắc mới sơ bộ thấp hơn nhiều trong các giai đoạn nêu trên.

Bệnh căn học

Bệnh nhiễm listeria là bệnh do thực phẩm, trong một số trường hợp hiếm gặp, bệnh có thể lây truyền dọc và lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp. Listeria monocytogenes là loài duy nhất trong 6 loài Listeria gây bệnh ở người. Đây là một loài trực khuẩn gram dương, không hình thành bào tử, kỵ khí tùy ý.[5] [10] [32] Các nhóm huyết thanh khác nhau được phát hiện không có tầm quan trọng trong việc xác định chẩn đoán, ngoại trừ các mục đích dịch tễ học.[32] Vi khuẩn phát triển ở nhiệt độ từ 1°C đến 37°C [33,8°F và 98,6°F], nhưng tăng trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 30°C đến 37°C [86-98,6°F]. Ở nhiệt độ từ 4°C đến 10°C [39,2-50°F], Listeria phát triển tốt hơn so với các mầm bệnh khác. Hiện tượng này được gọi là làm giàu lạnh và góp phần vào việc xác nhận vi khuẩn Listeria.[10] [11] Trực khuẩn xuất hiện phổ biến trong tự nhiên và thường gây nhiễm bẩn nhiều loại thực phẩm, bao gồm pho mát mềm, sữa và các sản phẩm từ sữa chưa tiệt trùng, rau sống, cũng như thịt bò và thịt gia cầm ăn thừa tiếp xúc với vi khuẩn.[7] [12] [13] [33] Các đường lây nhiễm hiếm gặp hơn là lây truyền dọc [qua nhau thai hoặc qua đường sinh bị nhiễm khuẩn] và qua tiếp xúc trực tiếp [bác sĩ thú y, người nông dân] với phôi động vật hoặc gia cầm bị nhiễm khuẩn.[2] [4] Việc lây truyền từ người bị bệnh không có triệu chứng cũng hiếm gặp.

Sinh lý bệnh học

Tiêm chủng có thể gây bệnh phụ thuộc vào tình trạng miễn dịch của bệnh nhân, cũng như khả năng axit hóa dạ dày.[1] [3] Người cao tuổi hoặc suy giảm miễn dịch, phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh nhạy cảm hơn do miễn dịch tế bào tương đối suy giảm tương đối và mức axit hóa dạ dày không đủ. Miễn dịch và sức đề kháng bệnh nhiễm listeria được cung cấp bởi các tế bào lympho nhạy cảm, không phải bởi kháng thể đặc hiệu huyết thanh. Cơ chế này dẫn đến tăng số ca bệnh nhiễm listeria ở bệnh nhân mắc AIDS [đặc biệt nếu CD4

Chủ Đề