Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là gì

QPTD -Thứ Năm, 15/09/2016, 08:00 [GMT+7]

Đẩy mạnh thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Kế thừa kết quả đạt được qua các kỳ đại hội, Đại hội XII của Đảng tiếp tục đề cập một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề này, tạo động lực cho sự phát triển và thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tiến bộ và công bằng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trở thành một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia - dân tộc và là khát vọng sống của loài người, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó không những là mục tiêu, nhiệm vụ cần giải quyết, mà còn là động lực của sự phát triển. Vì vậy, mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân đang phấn đấu thực hiện đã thể hiện rõ tinh thần đó.

Theo quan điểm của Đảng, thực chất của đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa phát triển đất nước với thực hiện chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; là quan tâm đến phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của con người, trên tinh thần tất cả vì con người, cho con người. Trong thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan điểm này càng có ý nghĩa quan trọng. Nó khắc phục được những hạn chế cố hữu của nền kinh tế thị trường, nhân lên tính nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa, nên cần phải được quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và từ kết quả đạt được qua 30 năm đổi mới ở nước ta, Đại hội XII của Đảng đã đề ra hệ thống giải pháp cơ bản, tổng thể và toàn diện để thực hiện vấn đề này. Việc nhận thức đúng quan điểm đó sẽ là cơ sở cho triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, đảm bảo cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta. Để làm được đó, cần thống nhất nhận thức trên một số vấn đề sau:

Thứ nhất, phải đẩy mạnh tăng trưởng, giữ vững định hướng phát triển của nền kinh tế. Đây không chỉ là nhiệm vụ chính trị trung tâm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước, mà là điều kiện quan trọng để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Vì, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, làm điều kiện và tiền đề cho nhau cùng phát triển. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, nếu kinh tế không phát triển, bị chệch hướng thì sẽ không thể thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; ngược lại, việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội phải phù hợp với thực tế, trên cơ sở hiện thực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Nếu không, có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế; kết cục, cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được.

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi chúng ta thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp, nhất là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật của kinh tế thị trường. Tích cực đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ những trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, v.v. Đồng thời, Nhà nước phải sử dụng các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi, chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân. Đó là yêu cầu xuyên suốt và chi phối, để không những khắc phục được hạn chế của quá trình công nghiệp hóa, tình trạng tiêu cực, vô chính phủ tự phát của kinh tế thị trường, mà còn bảo đảm đúng định hướng phát triển. Mục tiêu đặt ra là, phát triển bền vững, nhưng không phải bằng mọi giá. Bởi vì, chúng ta có thể đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế, tăng tổng thu nhập quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất, nhưng nếu không bảo đảm môi trường sinh thái thì chưa thể nói là đã quan tâm giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ hai, xây dựng và thực hiện tốt hệ thống pháp luật về chính sách an sinh xã hội. Nghị quyết Đại hội XII xác định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội”1. Đó là hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội hiện đại với các chức năng, trụ cột chính là: phòng ngừa rủi ro; giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro; về xóa đói giảm nghèo, lao động, tạo việc làm, phát triển kinh tế, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn; đối với người có công; đối với các nhóm yếu thế, v.v. Song, hiện nay, cần mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,... chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân. Đặc biệt, người có công phải được ưu tiên, ưu đãi trong giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm, nhà ở, đất ở, được chăm lo, phụng dưỡng về vật chất và tinh thần.

Việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về tiến bộ và công bằng xã hội phải hướng vào đáp ứng: [1]. Khuyến khích làm giàu chính đáng và được cụ thể hóa một cách thống nhất, đồng bộ trong thể chế, ổn định áp dụng đến khi hình thành tập quán, truyền thống xã hội. Khuyến khích làm giàu chính đáng phải đi đôi với sự trừng phạt nghiêm minh đối với các hành vi trục lợi bất chính, tham nhũng, buôn lậu, cấu kết, móc ngoặc hoặc trục lợi từ các ngoại ứng tiêu cực như gây ô nhiễm, phá hủy môi trường. [2]. Bộ phận người nghèo, thất học phải được chăm sóc, bảo vệ với ý nghĩa nuôi dưỡng và duy trì thỏa đáng phần nhân lực hữu dụng của xã hội; đồng thời, ngăn ngừa các tệ nạn và gánh nặng của xã hội trong tương lai. Các chính sách xã hội cho người nghèo không thuần túy mang ý nghĩa nhân đạo, mà phải thực sự mang ý nghĩa chính trị và kinh tế quốc gia. [3]. Phải ngăn ngừa, uốn nắn các xu hướng tự phát, khắc phục những “lực đẩy vô hình”, đưa xã hội phát triển đúng quỹ đạo, bảo đảm tính pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong quản lý, phát triển xã hội.

Thứ ba, thực hiện tốt việc xóa đói giảm nghèo, thu hẹp sự chênh lệch giàu - nghèo, chú ý đúng mức đến các nhóm yếu thế. Đây là vấn đề cấp thiết cần quan tâm giải quyết để bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội hiện nay. Theo đó, cần quán triệt và thực hiện tốt trong thực tiễn quan điểm của Đảng: “Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững”2. Chúng ta đã và đang nỗ lực theo hướng đó và trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ: tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam giảm từ 58% năm 1992 xuống còn 7,6% vào cuối năm 2013. Hiện nay, nhiều chương trình, chính sách xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số đã và đang được thực hiện hiệu quả. Mặc dù vậy, việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả, nhất là giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng, v.v. Do đó, cần phải nâng cao hiệu quả hơn nữa các chương trình, dự án, tập trung đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa; quan tâm giúp đỡ những người yếu thế, người tàn tật, già yếu, cô đơn, trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước, bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho họ .

Thứ tư, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập; nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của các tầng lớp dân cư. Có việc làm và tăng thu nhập sẽ giúp người dân có khả năng đáp ứng được những nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần, giúp họ tiếp cận được với các dịch vụ chất lượng tốt, nâng cao vị thế trong xã hội, hòa nhập với môi trường xung quanh. Đây được coi là cách thức bền vững nhất để giúp người dân thoát khỏi đói nghèo và là mấu chốt quan trọng của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động”3. Quán triệt tinh thần đó, các cấp, ngành cần đẩy mạnh khuyến khích đầu tư xã hội, tạo ra nhiều việc làm, xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Trong đó, coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn với quy hoạch kinh tế - xã hội, các chương trình phát triển kinh tế, ngành nghề và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương. Để có thể tìm được việc làm trong một môi trường cạnh tranh cao như hiện nay, người lao động cần phải trang bị cho mình sức khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, hiểu biết về pháp luật, tinh thần chấp hành kỷ luật, văn hóa ứng xử trong công việc mang tính chuyên nghiệp. Các cấp ủy Đảng và chính quyền tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất để phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng; thanh niên, lao động nông thôn, phụ nữ, lao động có điều kiện khó khăn. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, huy động mọi nguồn lực đầu tư tham gia công tác đào tạo nghề; khuyến khích lực lượng lao động trẻ, có tiềm năng đi đầu trong công tác phát triển, mở rộng sản xuất các ngành nghề, giải quyết việc làm cho người lao động. Cùng với đó, hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động là giải pháp quan trọng trong giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động hiện nay, v.v.

Thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Đại hội XII của Đảng đã định hướng nội dung, phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới. Điều đó phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hiện nay, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, cần được nhận thức đúng đắn, triển khai thực hiện có hiệu quả.

Thiếu tướng, PGS, TS. NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội nhân văn quân sự Bộ Quốc phòng, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

_______________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H. 2016, tr. 137.

2 - Sđd, tr. 135.

3 - Sđd, tr. 136.

Video liên quan

Chủ Đề