Tỷ lệ lạm phát ảnh hưởng đến giá cổ phiếu như thế nào

Theo USA Today, người Mỹ đang phải trả nhiều tiền hơn cho mọi thứ, từ xe hơi cho  đến thuê đến tiền thuê khách sạn do nhu cầu đi lại bị dồn nén, vốn đã được thúc đẩy bởi tiền mặt tăng thêm từ các gói kích cầu. 

Nhưng lạm phát gia tăng sẽ không chỉ đè nặng lên ngân sách du lịch hoặc hóa đơn mua sắm, nó cũng có thể ảnh hưởng đến các khoản đầu tư. Và thị trường chứng khoán không nằm ngoài sự tác động của lạm phát.

Giữa tháng 5, Phố Wall giảm điểm, một phần là do lạm phát đã có dấu hiệu tăng cao nhưng việc lạm phát hiện tại có ảnh hưởng tiêu cực trong dài hạn lên thị trường chứng khoán hay không vẫn là một dấu hỏi. 

Lạm phát cao thường được coi là tín hiệu tiêu cực cho thị trường chứng khoán vì khiến cho chi phí vay, chí phí đầu vào [nguyên vật liệu, lao động] tăng theo và giảm mức sống của người dân. Điều quan trọng nhất là lạm phát sẽ khiến cho tăng trưởng thu nhập kỳ vọng giảm xuống, gây áp lực cho giá cổ phiếu. 

Lạm phát trái kỳ vọng

Thông thường, thị trường chứng khoán sẽ dự báo về mức lạm phát mỗi năm, nhằm điều chỉnh lợi nhuận kỳ vọng để thoát khỏi sức ảnh hưởng của lạm phát. 

Tuy nhiên, khi lạm phát đột ngột tăng từ 2% lên 4% trong một khoảng thời gian ngắn, những dữ liệu thu thập trong quá khứ cho thấy thị trường sẽ phản ứng tiêu cực. Bởi vì nhà đầu tư đòi hỏi tỉ suất lợi nhuận cao hơn để bù đắp những rủi ro họ phải đối mặt. Thay vì lợi nhuận 8%, nhà đầu tư sẽ nâng kỳ vọng lên ít nhất 10% và giá cổ phiếu nhiều khả năng sẽ giảm xuống. 

Tốc độ lạm phát có tầm quan trọng thiết yếu đối với quỹ đạo kinh tế. Lạm phát tăng quá cao có thể buộc FED phải thắt chặt chính sách tiền tệ nhanh hơn mong muốn, gây ra các tác động lớn đến một nền kinh tế phụ thuộc vào nợ và do đó bị ràng buộc nghiêm trọng với lãi suất thấp.

Làm thế nào tốt nhất để bảo vệ danh mục đầu tư trước những tổn thất mà giá tăng thường gây ra? 5 cách tiếp cận khi lạm phát xảy ra. Ảnh: Man Group.

Lạm phát thời bùng nổ và khủng hoảng

Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, các cổ phiếu phản ứng tiêu cực với lạm phát thậm chí còn mạnh hơn. Mức độ phản ứng lớn hơn nhiều so với thời điểm nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh mẽ. 

Điều này hoàn toàn hợp lý. Khi nền kinh tế đang giảm tốc, lợi nhuận cũng như doanh thu thường giảm xuống, do đó không ai quan tâm tới vấn đề lạm phát. Khi nền kinh tế bùng nổ, lợi nhuận chắc chắn sẽ tăng cao và nền kinh tế rất có thể phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao hơn. 

Tác động của lạm phát là không giống nhau giữa các lĩnh vực. Ví dụ, cổ phiếu tăng trưởng có khả năng sẽ giảm giá khi lạm phát tăng cao. Đó là vì các cổ phiếu tăng trường có kỳ vọng lợi nhuận cao hơn trong tương lai, và khi lạm phát tăng cao, những kỳ vọng tương lai đó chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. 

Đối với cổ phiếu giá trị, công ty sẽ mang lại một mức lợi nhuận không đổi mỗi năm. Đối với cổ phiếu tăng tưởng, lợi nhuận sẽ tăng cao trong tương lại.

Các nhà đầu tư mua cổ phiếu tăng trưởng thường tính toán giá trị hiện tại của dòng lợi nhuận trong tương lai. Khi lạm phát hoặc lãi suất bắt đầu tăng cao hơn kỳ vọng sẽ khiến cho giá trị đó giảm xuống. 

Một phần nguyên nhân là lãi suất đối với trái phiếu phi rủi ro của chính phủ cũng sẽ tăng lên, khiến cho trái phiếu trở nên hấp dẫn hơn so với cổ phiếu. 

Một lý do khác là lạm phát và lãi suất cao hơn sẽ ảnh hưởng tới triển vọng lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp. 

“Cổ phiếu tăng trưởng có thời gian đáo hạn bình quân lâu hơn so với cổ phiếu giá trị vì chúng có thể mang lại lợi nhuận cao hơn trong tương lại. Nếu như lạm phát tăng cao, mức lợi nhuận bạn nhận được trong tương lai cũng giảm xuống”, theo Giám đốc trung tâm nghiên cứu Larry Swedroe của Viện quản lý Tài sản chiến lược Buckingham.

Các cổ phiếu công ty có vốn hóa nhỏ, đặc biệt là các cổ phiếu tăng trưởng, thường bị ảnh hưởng vì nhạy cảm hơn đối với lãi suất. 

Các cổ phiếu cổ tức cao, giống như cổ phiếu lĩnh vực tiện ích và bất động sản, cũng sẽ bị ảnh hưởng. Bỡi lẽ, nhà đầu tư có xu hướng xem trái phiếu lãi suất cao của chính phủ là một phương án thay thế, do cổ tức thường không bắt kịp đà tăng của lạm phát. 

Lạm phát có đáng sợ?

Lạm phát không hẳn “tồi tệ” như mọi người vẫn nghĩ. Lạm phát thậm chí còn giúp mang lại một số lợi ích nhất định. Trong một vài trường hợp, lạm phát vừa phải có thể giúp giảm tỉ lệ thất nghiệp. 

“Lạm phát vừa phải nên được nhìn nhận là hiện tượng tốt, vì là dấu hiệu cho một nền kinh tế đang tăng trưởng. Các doanh nghiệp có thể nâng giá bán hàng hóa, dịch vụ của mình”, ông Larry Swedroe nhận định. 

Thậm chí, tại nhiều thời điểm, lạm phát đạt đến “điểm tối ưu”. “Khi đánh giá tỉ suất lợi nhuận trên sàn S&P 500, có điều chỉnh với lạm phát, kết quả cho thấy mức tỉ suất lợi nhuận thực tế cao nhất đạt được khi lạm phát từ 2% tới 3%”, theo chuyên gia phân tích đầu tư Kristina Zucchi.

 

Người sáng lập và Chủ tịch công ty kế hoạch tài chính Caliber Financial Partners - ông Patrick Healey cho biết: “Lạm phát là không thể tránh khỏi, đặc biệt là với số tiền mà chính phủ đang chi tiêu. Từ quan điểm tài chính, bạn cần phải có một số phòng ngừa rủi ro trong danh mục đầu tư của mình”.

Có thể bạn quan tâm:

► Nhà đầu tư tổ chức mua mạnh trong tháng 5


TÓM TẮT ĐỀ TÀIChương 1 – Các vấn đề lý luận chung- Giới thiệu các khái niệm về chứng khoán, thị trường chứng khoán, lạm phát, các chỉ số đánh giá hiệu quả chứng khoán. - Giải thích tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán thông qua các nhân tố lãi suất, giá cả và các chính sách của nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát như thay đổi mức lãi suất chiết khấu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc v.v… Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ phiếu cụ thể trước và sau lạm phát- Đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ở hai giai đoạn trước và trong thời kỳ lạm phát. - Phân tích sự thay đổi của 5 cổ phiếu tiêu biểu cho các ngành ở hai giai đoạn trước và sau thời kỳ lạm phát thông qua các số liệu cụ thể, các bảng, biểu đồ giá, khối lượng giao dịch của các loại cổ phiếu này. Chương 3 – Các giải pháp can thiệp vào Thị trường chứng khoán trong giai đoạn kiềm chế lạm phát- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian tới.- Hoạt động của sàn GDCK Tp.HCM- Các giải pháp can thiệp vào thị trường chứng khoán trong giai đoạn lạm từ góc độ quản lý của nhà nước, giải pháp dành cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán và các nhà đầu tư. PHẦN 1 – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI1. Đặt vấn đềCó thể nói từ năm 2005 đến nay, Thị Trường Chứng Khoán ở Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng, là kênh huy động động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp và trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Tuy nhiên từ giữa năm 2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Chính vì thế, nhóm đã chọn nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục.” 2. Mục tiêu, phương pháp nghiên cứuMục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ về những ảnh hưởng của lạm phát tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua và tìm ra các giải pháp khắc phục các ảnh hưởng ấy đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp cũng như giải pháp dành cho các nhà đầu tư. Phương pháp nghiên cứu: đề tài phương pháp duy vật biện chứng dựa trên hai nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển xét theo các tính chất khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng – phong phú của chúng với những số liệu thực tế, các bảng biểu cũng như các đồ thị minh hoạ.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu- Đối tượng nghiên cứu: ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán nói chung và đến 5 loại cổ phiếu tiêu biểu của các ngành như Công ty cổ phần khoáng sản Bình Định [BMC], Công ty cổ phần sữa Việt Nam [VNM], Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín [STB], Công ty cổ phần cơ điện lạnh [REE], Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ [FPT]- Phạm vi nghiên cứu: các cổ phiếu được khảo sát trên sàn GDCK TP.HCM [HOSE]; trong khoảng thời gian trước khi xảy ra lạm phát [năm 2006, đầu năm 2007] và trong thời gian xảy ra lạm phát [giữa năm 2007 đến tháng 10 năm 2008].PHẦN 2 – NỘI DUNG NGHIÊN CỨUChương 1 – Các vấn đề lý luận chungGiới thiệu chung về chứng khoán1.1.1 Khái niệm chứng khoánChứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a] Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b] Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.1.1.2 Đặc điểm và vai trò của chứng khoána] Đặc điểm:Chứng khoán là giá khoán động sản, tức là các công cụ vốn dài hạn. b] Vai trò của chứng khoán:Chứng khoán là công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một lượng vốn tiền tệ khổng tồ tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà Nước và tư nhân.Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài chính có giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng. Chứng khoán là một loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự do. 1.1.3 Phân loại chứng khoána] Căn cứ vào nội dung chứng khoán- Chứng khoán nợ là loại chứng khoán do Nhà Nước hoặc các doanh nghiệp phát hành cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Ví dụ: trái phiếu.- Chứng khoán vốn là giấy tờ chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào công ty cổ phần. Ví dụ: các loại cổ phiếu.b] Căn cứ vào hình thức chứng khoán- Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không có gi tên người sở hữu trên các cổ phiếu, trái phiếu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán hay chuyển đổi trên thị trường chứng khoán.- Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu lưu giữ trong hồ sơ của chủ thể phát hành trên chứng khoán. Việc chuyển tên người sở hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn và phải có sự đồng ý của cơ quan phát hành chứng khoán.c] Căn cứ vào lợi tức chứng khoán- Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ loại chứng khoán này được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán điển hình là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.- Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà các nhà đầu tư mong đợi 1 mức lợi tức cao hơn nhiều so với chứng khoán có lợi tức ổn định, lãi suất không được ghi trên chứng khoán. Các loại chứng khoán này thường mang tính chất rủi ro cao và không ổn định.1.2 Giới thiệu chung về Thị trường chứng khoán1.2.1 Khái niệm và bản chất của Thị trường chứng khoána] Khái niệm: Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán.b] Bản chất: Thị trường chứng khoán phản ánh các quan hệ trao đổi, mua bán quyền sở hữu tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền, tức là mua bán quyền sở hữu vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được lưu thông như một loại hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường chứng khốn là hình thái phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa. 1.2.2 Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khốna] Đặc điểm: Thị trường chứng khốn là một bộ phận của thị trường tài chính, được chun mơn hóa về mua bán các chứng khốn trung và dại hạn. Thị trường chứng khốn ra đời là một tất yếu khách quan. b] Vai trò: - Thị trường chứng khốn là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Thị trường chứng khốn là cơng cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm này vào đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư.- Thị trường chứng khốn thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. - Thị trường chứng khốn góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế, tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế.- Thị trường chứng khốn là cơng cụ thu hút và kiểm sốt vốn đầu tư nước ngồi.1.2.3 Phân loại Thị trường chứng khốna] Căn cứ vào phương diện pháp lý của hình thức tổ chức thò trường- Thò trường chứng khoán chính thức [The stock exchange] Hay còn gọi là thò trường chứng khoán tập trung, là thò trường hoạt động theo các qui đònh pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký và chứng khoán ngoại lệ. Thò trường chứng khoán chính thức có đòa điểm và thời gian mua bán rõ rệt, giá cả được đònh theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán. Thò trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng các Sở giao dòch chứng khoán.- Thò trường chứng khoán phi chính thức [Over the counter market – OTC] Hay còn gọi là thò trường chứng khoán phi tập trung [còn gọi là Thị trường chứng khốn ngầm], là thò trường mua bán chứng khoán ngoài sở giao dòch, không có đòa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dòch chứng khoán, không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán, không có ngày giờ hay thủ tục nhất đònh mà do sự thoả thuận của người mua và người bán được thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên. Phương thức giao dòch thông qua mạng điện thoại và vi tính. Các chứng khoán giao dòch trên thò trường này thường là các loại chứng khoán không được đăng ký, ít người biết hay ít được mua bán. b] Căn cứ vào tính chất phát hành hay quá trình lưu hành của chứng khoán - Thò trường chứng khoán sơ cấpThò trường chứng khoán sơ cấp còn gọi là thò trường cấp một hay thò trường phát hành là thò trường phát hành các loại chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu cho phép các chủ thể cần nguồn tài chính tiếp nhận được các nguồn tài chính bằng việc phát hành các chứng khoán mới, những chứng khoán bán cho người đầu tiên mua nó nhằm thu hút vốn đầu tư. Thò trường sơ cấp là thò trường tạo vốn cho đơn vò phát hành. Thò trường này tập trung các nguồn vốn nhà rỗi của các nhà đầu tư về phía các đơn vò phát hành, đồng thời các chứng khoán được chuyển đến tay các nhà đầu tư lần đầu. Thò trường sơ cấp làm tăng vốn cho nền kinh tế đồng thời tạo ra hàng hoá chứng khoán cho thò trường thứ cấp. Việc phát hành chứng khoán ở thò trường sơ cấp nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm vào phát triển kinh tế. Đối tượng mua bán trên thò trường chứng khoán sơ cấp là quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thò trường này chỉ được tổ chức một lần, việc phát hành chứng khoán được bắt đầu kể từ khi đơn vò phát hành chứng khoán chào bán chứng khoán ra công chúng và chấm dứt khi toàn bộ số chứng khoán của đợt phát hành đến tay các nhà đầu tư thứ nhất.- Thò trường chứng khoán thứ cấp Thò trường chứng khoán thứ cấp là thò trường cấp hai hay thò trường lưu thông, thò trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên Thị trường chứng khốn sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đến tay người thứ hai, tức là thò trường diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thò trường chứng khoán sơ cấp.Thò trường chứng khoán thứ cấp là một thò trường cạnh tranh tự do. Trên thò trường này, các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các nhà kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia. Mặt khác, giá cả của chứng khoán phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh và kết quả của quan hệ cung cầu chứng khoán. Thò trường thứ cấp là một thò trường hoạt động liên tục không ngừng nghỉ. Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần trên thò trường này.c] Căn cứ vào phương thức giao dòch- Thò trường giao ngay [Spot market] còn gọi là thò trường thời điểm, tức là thò trường thực hiện việc giao dòch mua bán chứng khoán theo giá thỏa thuận của ngày giao dòch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó hai ngày.- Thò trường tương lai [Future market] là thò trường mua bán chứng khoán theo một hợp đồng đònh sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dòch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất đònh trong tương lai.d] Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hoá lưu hành trên thò trường chứng khoánTheo căn cứ này, thò trường chứng khoán được chia ra thành ba loại thò trường:- Thò trường cổ phiếu-Thò trường trái phiếu- Thò trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán1.3 Lạm phát và các ngun nhân gây ra lạm phát1.3.1 Khái niệm và bản chất của lạm pháta] Khái niệm: Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ kéo dài làm cho mức giá cả chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong một thời gian nhất định.b] Bản chất: Lạm phát là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng lên của giá cả diễn ra trong một thời gian dài.1.3.2 Phân loại lạm phátDựa vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh té chia làm 3 loại:- Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát một số, tỷ lệ tăng giá thấp dưới 10%/nămĐồng tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh. Mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch.- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát 2 hay 3 só, tức trong khoảng hơn 10%. Lạm phát phi mã trong 1 thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiem trọng, đồng tiền bị mất giá nhanh.- Siêu lạm phát: là loại lạm phát trên 4 số, tức tỷ lẹ lạm phát lên đến hàng ngàn phần trăm, người ta ví nó như căn bệnh ung thư gây chết người, có tác động rất lớn đến nền kinh tế, người ta bị chìm trong khối tiền tẹ khi hàng hóa đều khan hiếm. Tiền tệ không thực hiện chức năng phương tiện trao đổi vì không ai muốn bán hàng để lấy những đồng tiền vô giá trị. 1.3.3 Nguyên nhân gây ra lạm pháta] Xét theo nguồn gốc:- Nguyên nhân cơ bản và sâu xa: nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt dẫn đến lạm phát.- Nguyên nhan trực tiếp: cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức cần thiết.- Nguyên nhân quan trọng: hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của Nhà Nước bị xói mòn, từ dó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút, họ không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà Nhà Nước phát hành.b] Xét theo chủ quan – khách quan- Nguyên nhân chủ quan: những chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của Nhà Nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất, chính sách thuế … làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém, ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia..- Nguyên nhân khách quan: thiên tai, động đất, sóng thần … là những nguyên nhân bất kahr kháng hoặc nền kinh tế sau chiến tranh bị tàn phá, tình hình biến động của thị trường nhiên liệu, vàng, ngoại tệ thế giới … dẫn tới thiếu hàng hóa, đồng tiền mất giá.c] Xét theo lý thuyết cung – cầu- Lạm phát cầu kéo [Demand-pull inflation] xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng chậm hơn tổng cầu. Lúc đó, một lượng tiền lớn dùng để mua hàng hóa ít ỏi sẽ làm tăng giá. - Lạm phát chi phí đẩy [Cost-push inflation] xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc khi năng lực sản xuất của quốc gia giảm sút.1.4 Các nhân tố của lạm phát ảnh hưởng tới Thị trường chứng khoán1.4.1 Nhân tố giá cảBình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện về lãi suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó. Lạm phát gia tăng thì giá phải trả để sử dụng vốn của người khác sẽ tăng lên để tương xứng với mức độ gia tăng của giá cả. Chính vì vậy, lãi suất huy động của ngân hàng phải tăng lên dẫn tới lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng tăng lên, nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Dễ thấy, chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay tiền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút.Như chúng ta đã biết, một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một cổ phần. Gía chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau. Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng tiền tương lai được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ giảm.1.4.2. Nhân tố lãi suấtMối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm.Khơng chỉ vậy, quan hệ giữa lãi suất thò trường và lãi suất chứng khoán là mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán. Nếu lãi suất thò trường cao hơn lãi suất chứng khoán thì giá chứng khoán sẽ giảm, đều này khiến cho hoạt động trên thò trường chứng khoán giảm sút vì người ta thích gởi tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng khoán. Lãi suất của chứng khoán sẽ ảnh hưởng đến giá của chứng khoán. Ảnh hưởng này càng lớn nếu kỳ hạn của chứng khoán càng dài. Vì các chứng khoán dài hạn rủi ro cao hơn các chứng khoán ngắn hạn. Nếu những nhà đầu tư muốn mua chứng khoán dài hạn thì họ sẽ đòi hỏi một lãi suất chứng khoán cao hơn nhiều để bù đắp các rủi ro đó.1.4.3 Các chính sách của nhà nước trong việc kiềm chế lạm pháta] Thay đổi lãi suất chiết khấu:Lãi suất chiết khấu là chi phí mà các ngân hàng thuơng mại phải trả cho việc vay tiền từ ngân hàng trung ương. Nói rõ ràng hơn thì khi các ngân hàng thương mại cần tiền, họ có thể vay ở ngân hàng trung ương bằng cách mang chiết khấu các giấy tờ có giá với một lãi suất do ngân hàng trung ương cơng bố từ trước, gọi là lãi suất chiết khấu. Bởi đó là một trong những cách hữu hiệu nhất mà ngân hàng trung ương nỗ lực để kiểm sốt lạm phát. Khơng một quốc gia nào muốn để lạm phát ở mức cao. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi mục tiêu đó, chúng ta đang cố gắng khống chế tỷ lệ lạm phát ở mức 8%. Bằng việc thay đổi lãi suất chiết khấu, ảnh hưởng đến lượng cung tiền trong xã hội, ngân hàng trung ương hy vọng có thể kiểm sốt lạm phát. Đây cũng là cách làm phổ biến của hầu hết các quốc gia. Hiểu một cách cơ bản nhất thì khi ngân hàng trung ương gia tăng lãi suất chiết khấu tức là họ đang nỗ lực làm cho lượng cung tiền trong xã hội giảm bằng cách tạo chi phí vay tiền đắt hơn. Nó khiến cho việc vay tiền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Người chơi chứng khoán sẽ không thể vay của ngân hàng để đầu tư vào Thị trường chứng khoán như trước đây, do đó, lượng người và lượng vốn tham gia Thị trường chứng khoán sẽ ít đi.b] Quy định mức dự trữ bắt buộcKhi lượng dự trữ tiền cơ sở của các ngân hàng thương mại thay đổi vì chính sách tiền tệ thắt chặt của Nhà Nước sẽ dẫn đến ngân hàng thương mại phải điều chỉnh tương ứng các mức hạn cho vay tương ứng trên tổng dư nợ của ngân hàng, lượng tiền cung từ ngân hàng ít đi, số tiền vay được để chơi chứng khoán ít hơn, dân tự huy động tiền nhàn rỗi của mình nhiều hơnc] Chỉ thị 03 về thắt chặt cho vay chứng khoánSau nhiều đánh giá của các chuyên gia về tình trạng bong bóng của thị trường, chính phủ đã quyết định ban hành chỉ thị 03 về thắt chặt cho vay chứng khoán. Chỉ thị này ngay khi mới ra đời đã làm cho thị trường chứng khoán chấn động. Trên sàn giao dịch CK TPHCM, chỉ số VN - Index trong thời điểm đó cũng chỉ xoay quanh ngưỡng trên 1.000 điểm. So với xu thế tăng, VN - Index nghiêng về chiều hướng điều chỉnh giảm nhiều hơn. Giám đốc điều hành một quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại VN nhận định, nguyên nhân khiến TTCK đi đến kết quả trên là tác động bởi Chỉ thị 03 của NHNN vừa mới ban hành. Mặc dù đến thời điểm đó, NHNN vẫn chưa có động thái nào trước sự phản ứng quyết liệt của các NH cổ phần và NĐT. Nhưng trên thực tế, các NH cổ phần đã và đang dần tạm ngừng cho vay cầm cố CP. Chính vì vậy, tâm lý của NĐT rất hoang mang trong việc quan sát tình hình để kiếm cơ hội đẩy hàng thu hồi vốn trả nợ cho nhà băng. Theo vị giám đốc trên, nhiều khả năng CK sẽ bị ảnh hưởng mạnh trong thời gian tới khi các NH cổ phần mạnh tay siết chặt cho vay cầm cố hơn so với hiện nay.Trên thực tế, lượng tiền NĐT đổ vào thị trường đang dần bị thu hẹp. Điều này được chứng minh qua hiện tượng bỏ cọc mua CP của Tập đoàn Bảo Việt trong đợt đấu giá vừa qua, khiến giá CP của tập đoàn này đang trong trạng thái điều chỉnh. Không chỉ có CP của Bảo Việt, mà theo vị GĐ điều hành trên, nếu hạn chế mức cho vay cầm cố dưới 3% trên tổng dư nợ thì chắc chắn luồng tiền NĐT bỏ mua các CP khác sẽ bị hạn chế lại, vì lượng tiền NĐT đang bỏ vào trên thị trường phần lớn vay mượn từ NH.Theo ông, nếu NHNN cương quyết khống chế hạn mức cho vay cầm cố dưới hạn mức 3% trên tổng dư nợ thì không còn cách nào khác là NH phải thu hồi nợ. Tuy nhiên, ông cho rằng, như vậy NHNN đã vô tình hạn chế sự phát triển dịch vụ tín dụng và tính tự chủ của các NH cổ phần. Vì trên thực tế, nếu NĐT muốn tham gia mua cổ phần của một DN nào đó để trở thành đối tác chiến lược thì không lý do gì các NH lại từ chối. Vả lại, trước khi quyết định cho vay, các NH đều có sự phân chia danh mục, khoản vay để đảm bảo nguồn vốn và hạn chế rủi ro. Như vậy, theo ông này nếu hạn chế cho vay cầm cố CK, NHNN chỉ nên kiểm soát chặt NH khi cho các nhà đầu cơ vay kinh doanh CP. Không chỉ có NĐT cá nhân mà ngay cả những NĐT có tổ chức cũng luôn cần đến nguồn vốn của NH. Duy chỉ có các NĐT nước ngoài mới có sẵn nguồn tiền lớn đầu tư. Do vậy, việc NHNN hạn chế cho vay cầm cố sẽ ảnh hưởng nhất định đến NĐT trong nước, nhưng đồng thời lại là cơ hội cho NĐT nước ngoài. Vì thông thường, NĐT ngoại vẫn luôn có xu hướng mua vào khi giá CP trên thị trường có dấu hiệu sụt giảm.Tuy nhiên không thể đổ lỗi cho quyết định này hoàn toàn, mà nguyên nhân chính là do tâm lý bất ổn của nhà đầu tư. Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cho biết: “Theo tơi, Chỉ thị 03 sẽ khơng gây tác hại q lớn như một số thơng tin thổi phồng lên đâu. Những người chơi chứng khốn phần lớn bằng vốn vay mượn NH chiếm tỷ lệ bao nhiêu chưa ai biết được mà đã vội cho rằng thị trường đã bị cho uống thuốc q liều”. Tuy nhiên nói gì thì nói, sau thời điểm đó, TTCK Việt bắt đầu chuỗi mất điểm và trở lại vị trí thực của nó1.5 Các nhóm chỉ số dùng để đánh giá hiệu quả của chứng khốn1.5.1 Chỉ số thanh khoảnChỉ ra khả năng của công ty đáp ứng nợ ngắn hạn cũng như chuyển tài sản hiện thời thành tiền mặt để trả nợa] Chỉ tiêu vốn hoạt động thuầnChỉ tiêu vốn hoạt động thuần là chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn, là số vốn mà công ty cần để đưa vào các hoạt động hàng ngày. Số tiền này nhằm duy trì mức độ hữu hiệu của vốn hoạt động. Đảm bảo điều này cho phép công ty nâng cao khả năng thanh toán những món nợ đến hạn. hạnngắn nợ bộToàn - hạnngắn sản tài bộToàn thuần động hoạt Vốn=b] Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành [Rc] hạnngắn nợ bộToàn hạnngắn sản tài bộToàn cR=Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được chấp nhận hay không tuỳ thuộc vào sự so sánh với tỷ số thanh toán trung bình ngành mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc so sánh với các năm trước để thấy sự tiến bộ hoặc giảm sút.Nếu chỉ tiêu Rc giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra.Nếu chỉ tiêu Rc khá cao và cóõ1u hướng tăng nghóa là công ty luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên nếu Rc quá cao sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn vì công ty đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn, tức là công ty quản lý tài sản ngắn hạn chưa có hiệu quả. Theo quan điểm của nhiều nhà phân tích, xu hướng của phân tích chỉ số Rc ở mức độ an toàn trong khoảng 2,0c] Chỉ số khả năng thanh toán nhanh [Rq]Chỉ số khả năng thanh toán nhanh [Rq] là chỉ tiêu được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có thể nhanh chóng được chuyển đổi thành tiền, bao gồm tất cả các tài sản lưu động trừ hàng tồn kho hạnngắn nợ bộToàn khotồn Hàng - hạnngắn sản tài bộToàn qR=d] Chỉ số thanh khoản [k]Chỉ số thanh khoản là chỉ tiêu đánh giá chính xác nhất khả năng thanh toán nợ đến hạn của công ty, đánh giá ngân quỹ mà công ty có thể sử dụng tức thời hạnngắn nợ bộToàn trường thò trên c đượ bánthể có khoánchứng Các Tiền k+=Nếu k >1: tốtk=1: bình thườngk

Chủ Đề