Vấn đề có ý nghĩa sống con đối với Đảng và nhân dân ta trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay là gì

Trắc nghiệm Xu hướng toàn cầu hóa có đáp án năm 2021 mới nhất

Trang trước Trang sau

Tải xuống

Để giúp học sinh có thêm tài liệu tự luyện ôn thi THPT Quốc gia năm 2021 môn Lịch Sử đạt kết quả cao, chúng tôi biên soạn Trắc nghiệm Xu hướng toàn cầu hóa có đáp án mới nhất gồm các câu hỏi trắc nghiệm đầy đủ các mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dung cao.

Câu 1:“Quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên thế giới” là bản chất của quá trình nào?

A.Quốc tế hóa

B.Khu vực hóa

C.Toàn cầu hóa

D.Quốc hữu hóa

Lời giải:

Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 2: Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện từ khi nào?

A.Từ những năm 70 của thế kỉ XX.

B.Từ những năm 80 của thế kỉ XX.

C.Từ những năm 90 của thế kỉ XX.

D.Xuất hiện cùng lúc với cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại.

Lời giải:

Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, xu thế toàn cầu hóa xuất hiện trên thế giới, là một hệ quả quan trọng của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 3:Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX là hệ quả của

A.Sự phát triển của quan hệ thương mại quốc tế

B.Sự sáp nhập các công ty thành những tập đoàn lớn

C.Sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia

D.Cách mạng khoa học- công nghệ

Lời giải:

Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ là từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 4:Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX là hệ quả của

A.Sự phát triển của quan hệ thương mại quốc tế

B.Sự sáp nhập các công ty thành những tập đoàn lớn

C.Sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia

D.Cách mạng khoa học- công nghệ

Lời giải:

Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ là từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 5:Nội dung nào sau đây là tác động tích cực của xu thế toàn cầu hóa?

A.Phân hóa giàu nghèo giữa các nước trên thế giới và trong xã hội.

B.Kém an toàn về kinh tế, tài chính, chính trị.

C.Tạo ta nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.

D.Thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất

Lời giải:

Về mặt tích cực, toàn cầu hóa thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao.

Còn các đáp án: A, B, C là tác động tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 6:Một trong những tác động tích cực của xu thế toàn cầu hóa là

A.Sự tác động, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới

B.Sự phát triển nhanh chóng của các quan hệ thương mại quốc tế

C.Sự thúc đẩy nhanh, mạnh việc phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất

D.Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại quốc tế và khu vực

Lời giải:

- Các đáp án A, B, D: là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa.

- Đáp án C: Xu thế toàn cầu hóa về mặt tích cực đã thúc đẩy rất mạnh, sự phát triển và xã hội hóa sản xuất, đem lại sự tăng trưởng cao.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 7:Ý nào sau đây không phải là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa?

A.Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, quân sự quốc tế và khu vực

B.Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế

C.Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn

D.Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia

Lời giải:

Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa ngày nay bao gồm:

1- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế

2- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia

3- Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn

4- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực

Còn đáp án A: Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, quân sự quốc tế và khu vực không phải biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 8:Sự xuất hiện của ngân hàng thế giới, Liên minh châu Âu, diễn đàn hợp tác Á - Âu là biểu hiện của xu thế nào?

A.Toàn cầu hóa.

B.Đa dạng hóa.

C.Nhất thể hóa.

D.Đa phương hóa.

Lời giải:

Một trong những biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX là sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.

=> Sự xuất hiện của ngân hàng thế giới, Liên minh châu Âu, diễn đàn hợp tác Á – Âu là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 9:Sự phát triển của quan hệ thương mại quốc tế phản ánh điều gì trong mối quan hệ giữa các nước trên thế giới?

A.Mối quan hệ lỏng lẻo

B.Mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau

C.Không có mối liên hệ nào giữa các nước

D.Sự suy giảm mối liên hệ

Lời giải:

Thương mại quốc tế phát triển có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 10:Sự xuất hiện của ngân hàng thế giới, Liên minh châu Âu, diễn đàn hợp tác Á - Âu là biểu hiện của xu thế nào?

A.Toàn cầu hóa.

B.Đa dạng hóa.

C.Nhất thể hóa

D.Đa phương hóa.

Lời giải:

Một trong những biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ XX là sư ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.

=> Sự xuất hiện của ngân hàng thế giới, Liên minh châu Âu, diễn đàn hợp tác Á – Âu là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 11:Tại sao vào những năm cuối thế kỉ XX làn sóng sáp nhập, hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn lại tăng lên nhanh chóng?

A.Do tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế

B.Do nhu cầu của thị trường ngày càng lớn

C.Do sự xuất hiện của hiện tượng “cá lớn nuốt cá bé”

D.Do nhu cầu tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường

Lời giải:

Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn nhất là các công ty khoa học- kĩ thuật nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Công ty càng lớn thì càng có cơ sở tài chính vững mạnh, không dễ bị lật đổ như các công tư nhân nhỏ và có sức cạnh tranh hơn.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 12:Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế tăng cao, điều này có nghĩa là

A.nền kinh tế các nước trên thế giới có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau.

B.sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia.

C.sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế.

D.sự sáp nhập và hợp nhất của các công ty thành những tập đoàn lớn.

Lời giải:

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập kỉ 90, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế tăng cao [12 lần]. Điều này có nghĩa là nền kinh tế các nước trên thế giới có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 13:Tổ chức nào sau đây không phải là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa?

A.Hiệp định thương mại tự do ASEAN [AFTA]

B.Diễn đàn hợp tác Á- Âu [ASEM]

C.Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương [NATO]

D.Hiệp định thương mại tự do Bắc Mĩ [NAFTA]

Lời giải:

Trong xu thế toàn cầu hóa, kinh tế - thương mại- tài chính quốc tế là lĩnh vực liên kết chủ đạo. Do đó các tổ chức liên kết quốc tế và khu vực ra đời do tác động của xu thế toàn cầu hóa đều nằm trong các lĩnh vực này.

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương [NATO] là liên minh quân sự nhằm chống lại Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu nên không nằm trong xu thế này.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 14:Vì sao toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không đảo ngược?

A.Do nhu cầu liên kết của các quốc gia

B.Do sự phát triển của lực lượng sản xuất

C.Do sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật

D.Do tác động của các vấn đề toàn cầu

Lời giải:

Là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất nên toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu liên kết giữa các quốc gia, khu vực càng được mở rộng.

=> Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 15:Trong xu thế toàn cầu hóa, các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước, chủ yếu là do

A.Khai thác hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, kỹ thuật công nghệ từ bên ngoài.

B.Sự giúp đỡ của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế.

C.Sự hợp tác, đối thoại, sự trợ giúp của các nước phát triển.

D.Khai thác được nguồn nhân công phong phú và rẻ mạt.

Lời giải:

Toàn cầu hóa là kết quả của quá trình tăng tiến của lực lượng sản xuất, tao điều kiện cho các quốc gia rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước bằng cách khai thác có hiệu quả vốn đầu tư, kĩ thuật công nghệ từ bên ngoài.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 16:Cơ hội lớn nhất mà xu thế toàn cầu hóa tạo ra cho các quốc gia đang phát triển trên thế giới là gì?

A.Tranh thủ được nguồn vốn

B.Chuyển giao khoa học kĩ thuật

C.Mở rộng thị trường

D.Rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển

Lời giải:

Xu thế toàn cầu hóa tạo cơ hội để các nước phát triển mở cửa, hội nhập, thu hút vốn đầu tư, tận dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật để nâng cao năng suất, hạ già thành sản phẩ, tăng chất lượng mẫu mã => tăng khả năng cạnh tranh trên thị trưởng. Từ đó rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 17:Thách thức nghiêm trọng về mặt chính trị mà xu thế toàn cầu hóa tạo ra cho các nước là gì?

A.Vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên.

B.Sự phân hóa giàu nghèo càng ngày càng lớn.

C.Những tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế.

D.Vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Lời giải:

Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế - xã hội, xu thế toàn cầu hóa còn đặt ra thách thức to lớn về mặt chính trị đối với các quốc gia đó là vấn đề chủ quyền quốc gia.

Điều này được lý giải bằng sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, người ta thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 18:Các tập đoàn như: Apple, Samsung, Microsoft, Facebook… cho ta thấy biểu hiện nào của xu thế toàn cầu hóa?

A.Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.

B.Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn.

C.Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia.

D.Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính khu vực và quốc tế.

Lời giải:

Sự xuất hiện của các tập đoàn như: Apple, Samsung, Microsoft, Facebook, …nhắc đến biểu hiện sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia của xu thế toàn cầu hóa.

Ví dụ như tập đoàn apple là một tập đoàn công nghệ máy tính của Mỹ có trụ sở chính đặt tại Califoria. Với lượng sản phẩm bán ra toàn cầu hàng năm là 13,9 tỷ đô la Mỹ [2005], 74 triệu thiết bị iPhone được bán ra chỉ trong một quý 4 năm 2014 và có hơn 98.000 nhân viên ở nhiều quốc gia, sản phẩm là máy tính cá nhân, phần mềm, phần cứng, thiết bị nghe nhạc và nhiều thiết bị đa phương tiện khác. Sản phẩm nổi tiếng nhất là máy tính máy nghe nhạc iPod [2001], chương trình nghe nhạc Itunes, điện thoại iphone [2007], máy tính bảng ipad [2010] và đồng hồ thông minh Apple Watch [2014-2015] hoạt động trên nhiều quốc gia trên thế giới.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 19:Để vươn lên phát triển trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam cần phải làm gì?

A.Ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ.

B.Mở cửa để hội nhập sâu rộng với bên ngoài.

C.Tận dụng các nguồn vốn đầu tư bên ngoài.

D.Hoàn thành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Lời giải:

Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ của những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Đứng trước xu thế đó, Việt Nam cần mở cửa để hội nhập sâu rộng với bên ngoài, tận dụng những thời cơ mà xu thế này mang lại, đặc biệt là học hỏi trình độ quản lí, thành tựu khoa học kĩ thuật và thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài => Mục đích nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 20:Trước xu thế toàn cầu hóa, tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Việt Nam cần

A.Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.

B.Bỏ qua cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.

C.Bỏ qua cơ hội, bỏ qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.

D.Nắm bắt cơ hội, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta.

Lời giải:

Toàn cầu hóa là thời cơ lịch sử, là cơ hội rất to lớn cho các nước phát triển mạnh mẽ, đồng thời cũng tạo ra những thách thức to lớn. Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Do vậy “Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”.Thực tế qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, làm thay đổi bộ mặt đất nước ở nhiều phương diện.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 21:Để thích nghi với xu thế toàn cầu hóa, các nước trên thế giới đã và đang

A.Tận dụng nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài để phát triển kinh tế.

B.Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

C.Nắm bắt thời cơ vượt qua thách thức.

D.Tiếp tục công cuộc đổi mới, ứng dụng thành tựu khoa học- kỹ thuật của thế giới.

Lời giải:

Để thích nghi với xu thế toàn cầu hóa, các nước trên thế giới đã và đang nắm bắt thời cơ vượt qua thách thức, coi đây là vấn đề quan trọng có tác động to lớn đến sự phát triển của từng nước.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 22:Trong xu thế hoà bình ổn định, hợp tác và phát triển, Việt Nam có được những thời cơ thuận lợi gì?

A.Có được thị trường lớn để tăng cường xuất khẩu hàng hoá.

B.Nâng cao trình độ tập trung vốn và lao động.

C.Hợp tác kinh tế, thu hút vốn đầu tư và ứng dụng khoa học kĩ thuật.

D.Ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất.

Lời giải:

Trong xu thế hòa bình và hợp tác phát triển, Việt Nam có những thời cơ thuận lợi sau:

- Hợp tác kinh tế: trên nhiều lĩnh vực từ nông nghiệp, công nghiệp đến ngoại thương với các dự án từ nhỏ đến lớn, hợp tác về kinh tế là động lực quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ.

- Thu hút vốn đấu tư nước ngoài: vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nếu sử dụng hợp lí sẽ làn nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế. Thực tế Việt Nam hiện nay, vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm vị trí qua trọng, trong đó có vốn đầu tư không hoàn lại.

- Ứng dụng khoa học – kĩ thuật: Khoa học – kĩ thuật có vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất lao động, thay đối các nhân tố sản xuất [tư liệu sản xuất, người lao động].

Đáp án cần chọn là: C

Câu 23:Trong xu thế toàn cầu hóa, thời cơ chủ yếu của Việt Nam là

A.Tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến từ các nước phát triển.

B.Thu hút được nhiều nguồn viện trợ không hoàn lại từ nước ngoài.

C.Nhập khẩu loại hàng hóa với giá thấp.

D.Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.

Lời giải:

Xu thế toàn cầu hóa là hệ quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ từ những năm 80 của thế kỉ XX đã tạo ra nhiều thời cơ đối với các dân tộc, trong đó có Việt Nam. Trong xu thế này, Việt Nam có thể tiếp thu không chỉ thành tựu khoa học – kĩ thuật tiên tiến mà còn có kinh nghiệm quản lí từ các nước đang phát triển. Đó chính là nhân tố quan trọng để Việt Nam thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường thế giới.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 24: "Đến năm 2000, nước ta có quan hệ thương mại với hơn 140 nước quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ”.Trích sách giáo khoa Lịch sử 12 NXB Giáo dục Việt Nam H.2015. Tr 215. Nội dung trên là minh chứng cho biểu hiện nào của xu thế toàn cầu hóa?

A.Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.

B.Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế - tài chính quốc tế và khu vực.

C.Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia.

D.Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đoàn lớn.

Lời giải:

“Đến năm 2000, nước ta có quan hệ thương mại với hơn 140 nước quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ” đã thể hiện sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế, tăng cường sự trao đổi thương mại, tính phụ thuộc và mối quan hệ chặt chẽ của nền kinh tế Việt Nam đối với nền kinh tế thế giới.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 25:Yếu tố nào quyết định xu hướng liên kết khu vực của các nước tư bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai?

A.Yêu cầu giải quyết các vấn đề toàn cầu.

B.Sự phát triển của lực lượng sản xuất.

C.Phát huy tối đa những lợi thế về chính trị xã hội.

D.Yêu cầu tạo thế cân bằng với Liên Xô và Đông Âu.

Lời giải:

Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến xu thế toàn cầu hóa. Một trong những biểu hiện quan trọng của xu thế toàn cầu hóa là sự xuất hiện các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.

=> Yếu tố dẫn đến các nước tư bản ngày càng có xu hướng liên kết khu vực sau Chiến tranh thế giới thứ hai là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 26:Trước xu thế tất yếu, khách quan không thể đảo ngược của toàn cầu hóa, Việt Nam cần phải

A.Nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức

B.Sử dụng hiệu quả nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài

C.Ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học kĩ thuật

D.Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Lời giải:

Trước xu thế tất yếu, khách quan không thể đảo ngược của xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam cần phải “nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức,phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới. Đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 27:Xu thế khách quan, không thể đảo ngược của xu thế toàn cầu hóa có tác động như thế nào đến các nước đang phát triển?

A.Tạo nguồn động lực mạnh mẽ cho các nước phát triển kinh tế.

B.Tạo ra những thách thức lớn lao cho các nước.

C.Có tác động trên cả mặt tích cực và tiêu cực.

D.Thúc đẩy nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất.

Lời giải:

Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược. Nó có những tác động tích cực và tiêu cực, nhất là đối với các nước đang phát triển.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 28:Ý nào được coi là thời cơ lịch sử do xu thế toàn cầu hóa đem lại cho tất cả các quốc gia trên thế giới?

A.Các nguồn vốn đầu tư, kĩ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài.

B.Sự xung đột và giao thoa giữa các nền văn hóa trên thế giới.

C.Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế thương mại, tài chính ở các khu vực.

D.Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.

Lời giải:

- Đáp án A: trong xu thế toàn cầu hóa, mối quan hệ giữa các nước được tăng cường, hợp tác cùng nhau phát triển, nhất là đối với các nước đang phát triển thì toàn cầu hóa là thời cơ để các nước này thu hút vốn đầu tư, kĩ thuật công nghệ của nước ngoài, kinh nghiệm quan lí của các nước phát triển.

- Đáp án B: sự xung đột giữa các nền văn hóa là một trong những vấn đề cản trở sự giao lưu giữa các nước, không phải là thời cơ của xu thế toàn cầu hóa.

- Đáp án C, D: biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 29:Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ là từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa.

Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.

Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa ngày nay là:

- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.

- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.

- Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn.

- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.

Là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được. Nó có mặt tích cực và mặt tiêu cực, nhất là đối với các nước đang phát triển.

Toàn cầu hóa là thời cơ lịch sử, là cơ hội rất to lớn cho các nước phát triển mạnh mẽ, đồng thời cũng tạo ra những thách thức to lớn. Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Do vậy, “nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”.

Xét về bản chất, toàn cầu hóa là:

A.Xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được, làm cho mọi mặt đời sống của con người kém an toàn hơn.

B.Kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.

C.Quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

D.Sự phát triển nhanh chóng các mối quan hệ thương mại, là sự phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi toàn cầu.

Lời giải:

Xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ của những mối liên hệ, những ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.

Đáp án cần chọn là: C

Tải xuống

Xem thêm bộ câu hỏi trắc nghiệm Lịch Sử lớp 12 chọn lọc, có đáp án khác:

Giới thiệu kênh Youtube Tôi

Trang trước Trang sau

Về những thời cơ và thách thức đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay

Ngày đăng: 02/07/2019 03:15
Mặc định Cỡ chữ
Bối cảnh toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam đã đem lại những thời cơ, vận hội, đồng thời cũng làm xuất hiện cả những thách thức, nguy cơ thực sự đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là cần nhận diện rõ và có những chiến lược hợp lý, tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển.
Các bác sĩ quân y Việt Nam tới sân bay quốc tế Juba, bắt đầu thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan - thể hiện việc Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và tham dự ngày càng có trách nhiệm vào các nhiệm vụ quốc tế. Ảnh: TTXVN

Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa là một quá trình có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đem lại cả thời cơ, vận hội phát triển lẫn thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường đối với các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa liên quan chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng đối với quá trình hội nhập quốc tế của các nước nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Về thực chất, hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực [kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…] dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các “luật chơi” chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay cũng đang mở ra những vận hội đi liền với những thách thức to lớn.

Những thời cơ, vận hội

- Thực tiễn vận động, phát triển của những xu thế lớn trên thế giới, đặc biệt là xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam giữ vững ổn định để phát triển đất nước

Bối cảnh mới làm xuất hiện nhiều xu thế mới đan xen nhau và có tác động sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội thế giới. Có thể thấy, những xu thế đó là: 1- Xu thế hoà bình, hợp tác, hội nhập quốc tế lôi cuốn nhiều nước tham gia; 2- Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở nhiều quốc gia, khu vực; 3- Xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế và khu vực; 4- Những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài nguyên biển, đảo ngày càng phức tạp; 5- Xu thế dân chủ hoá rộng rãi đời sống xã hội thế giới; 6- Sự tồn tại và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại; 7- Sự nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa nước lớn, chiến tranh thương mại…; 8- Xu thế nêu cao ý thức độc lập, bảo vệ lợi ích dân tộc của các nước; 9- Sự xuất hiện đa dạng, phong phú các mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa như là xu thế tất yếu khách quan, tạo ra dấu hiệu khôi phục của xã hội xã hội chủ nghĩa ở một số quốc gia, khu vực.

Trong những xu thế trên thì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng hợp tác, tập hợp lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại gần nhau, cùng nhau hợp tác nhằm tìm kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay chính là việc nhận thức sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những thời cơ ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giữ vững hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế

Do tác động mang tính hai mặt, nên toàn cầu hóa không chỉ đặt ra những thách thức, nguy cơ mà còn tạo ra những cơ hội lớn để các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chiến lược “hội nhập” vào nền kinh tế thế giới, qua đó, một mặt, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước; mặt khác, thông qua hợp tác quốc tế mà tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư, khoa học công nghệ và quản lý từ các nước phát triển.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây rõ ràng là lợi thế của những nước đi sau. Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động. Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Qua đó, chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế.

- Những thành tựu đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã tạo nên điều kiện nền tảng và vận hội quan trọng cho đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành quả quan trọng, được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2018 rất ấn tượng, đạt 7,08% và trong năm qua, chúng ta đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu đã đề ra. Thế và lực của nước ta tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế, mở ra những vận hội chưa từng có và đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Đó chính là một trong những nguồn lực nội sinh bảo đảm điều kiện, tạo cơ sở cho Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn. Điển hình là sự kiện Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc sau phiên bỏ phiếu vào ngày 7/6/2019, với số phiếu rất cao [192/193 phiếu]. Kết quả này phản ánh sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam; đồng thời cũng là thành quả xứng đáng của Việt Nam sau những nỗ lực đóng góp vào hòa bình, an ninh thế giới.

- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc trong xây dựng con người xã hội chủ nghĩa

Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và rõ ràng, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công thì phải đặt con người vào vị trí trung tâm, phải có con người đạo đức, trí tuệ với đầy đủ các phẩm chất cần có của con người xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt đến con người, coi con người là trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát triển và định hướng sự nghiệp xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn liền với xây dựng nhân cách phát triển hài hoà, kế thừa truyền thống và hiện đại, vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Giá trị truyền thống có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới, gắn lý tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay, nhất là thế hệ trẻ. Bối cảnh mới đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá trị truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại trong xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi mới và phát triển.

Những thách thức, nguy cơ
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII [tháng 1/1994], Đảng ta đã chỉ ra những thách thức, những nguy cơ lớn đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Những thách thức là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa…; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau”[1] và hiện vẫn đang đe dọa sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII [năm 2016] vạch rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”[2]. Vượt qua bốn nguy cơ để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ là những thách thức thực sự, đòi hỏi phải có những nỗ lực vượt bậc, sự đoàn kết cao độ, cùng chung sức, đồng lòng của cả dân tộc nhằm bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng trong bối cảnh mới.

- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là nguy cơ thường trực và khó khắc phục

Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì toàn cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương diện kinh tế, đây là cuộc cạnh tranh, đấu tranh hết sức cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối toàn cầu hóa. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay[3].

Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định trong 20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy: Xét về số tuyệt đối thì GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một doãng ra với tốc độ rất nhanh so với GDP của Việt Nam. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP của Việt Nam là 3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Nói cách khác, dù Việt Nam đã đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng thể, dài hạn để khắc phục.

- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn

Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất công xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc;...

- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước

Thông thường, “diễn biến hòa bình” được coi là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức, thủ đoạn mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

Tuy nhiên, bản chất thật sự của “diễn biến hòa bình” hiện nay là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ[4]. Hiện nay, “diễn biến hòa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành, phương thức, nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “công nghệ”, đó là “công nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường, thực tế đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó và khắc chế cho phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.

- Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để

Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã nêu những kết quả đạt được và ưu điểm trong xây dựng đội ngũ cán bộ như sau: Đa số cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội[5].

Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân sau”, sa vào “lợi ích nhóm”.

Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình thức mới, như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công tác cán bộ… Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây bức xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây ra những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, nhưng cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn, gay go, đầy phức tạp.

Chính vì vậy, để khắc chế nguy cơ này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và chống, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền bá các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, lối sống của mình ra khắp thế giới, với sự hỗ trợ đắc lực của các công cụ, phương tiện truyền thông đa nền tảng, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa” của mình, làm phai nhạt các giá trị truyền thống dân tộc. Nhiều phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới tầng lớp thanh niên và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm, khó lường. Bởi lẽ, giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải kết hợp giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị truyền thống với việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng

Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế giới từ trước đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, bất cứ khi nào mắc phải những lệch lạc và sai lầm trong giải quyết mối quan hệ này thì khi đó phong trào cách mạng của mỗi nước cũng như của thế giới đều vấp phải khó khăn, thậm chí là thất bại với những tổn thất hết sức nặng nề.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, hầu hết các chính phủ trên thế giới đều công khai tuyên bố đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc sẽ lại nổi lên, làm phân hoá các lực lượng chính trị thành nhiều đội ngũ, đặc biệt là làm phân liệt phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, làm giảm sút tinh thần và sức mạnh chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng tiêu cực tới phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Cùng với đó, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt phái cũng đang có xu hướng ngày càng gia tăng, tác động phức tạp đến đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của nhiều nước, ảnh hưởng xấu, làm tê liệt truyền thống, chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân trên phạm vi thế giới.

- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển

Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay. Nguyên tắc “bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, còn cách thức bảo đảm những nguyên tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển. Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế hiện nay là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương châm: Hòa nhập nhưng không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.

Những thời cơ và thách thức, cơ hội và nguy cơ này luôn xuất hiện đan xen nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng những quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó, cần tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

PGS.TS. Nguyễn Chí Hiếu - Tạp chí Cộng sản

-------------------------------------------------------------------------
[1] Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII [lưu hành nội bộ], tr. 25

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 19

[3] Xem: GS.TS. Nguyễn Ngọc Long [chủ biên]: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 429

[4] Xem: GS.TS.Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn Hiền, PGS.TS. Nguyễn Viết Thông [Đồng chủ biên]: Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 732

[5] Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

​Xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam

[ĐCSVN] – Ngày 24/11, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng với tựa đề: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu:

Toàn cảnh Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021

Xây dựng và phát triển văn hóa, con người vì sự phát triển bền vững

Văn hóa hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc

Khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII

Khẳng định vai trò của văn hóa trong việc phát triển nhanh và bền vững đất nước

Khơi dậy động lực và sức mạnh nội sinh của văn hoá thúc đẩy sự phát triển đất nước

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.

“Kính thưa các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu,

Thưa toàn thể các đồng chí,

Hôm nay, tại Thủ đô Hà Nội - "nơi lắng hồn núi sông ngàn năm"; "nơi hội tụ, kết tinh và toả sáng nền văn hoá, văn minh của Dân tộc"; "Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người"; "Thành phố vì hoà bình"; "hào hoa và thanh lịch"; "văn hiến và anh hùng";... chúng ta long trọng tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hoá. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa về nhiều phương diện; tôi rất vui mừng và hào hứng được đến dự Hội nghị này. Sở dĩ tôi nói như vậy là vì 3 lý do:

- Vị trí, vai trò quan trọng của văn hoá: Văn hoá là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hoá còn thì Dân tộc còn,...

- 75 năm nay [từ ngày 24/11/1946], hôm nay mới lại có Hội nghị toàn quốc về văn hoá với quy mô lớn thế này.

- Họp sau Đại hội Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận, Khối Nội chính; và sắp tới sẽ còn có Hội nghị về đối ngoại và về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần tôi vẫn nói: "Tiền hô hậu ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng" và "Dọc ngang thông suốt".

Trước hết, tôi xin gửi đến các vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể các đồng chí lời chào thân ái, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.

Thưa các đồng chí,

Chúng ta đều đã biết, Văn hoá là một phạm trù rất rộng, có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Đến nay, trên thế giới có tới gần 200 định nghĩa khác nhau về Văn hoá. Nhưng chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hoá là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định [thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hoá Đông Sơn, văn hoá lúa nước,...]. Nghĩa hẹp: thì văn hoá là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức [lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...]. Văn hoá cũng bao gồm cả văn hoá vật thể [các di tích lịch sử, các công trình văn hoá, di sản văn hoá, những sản phẩm văn hoá: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...] và phi vật thể [ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...]. Văn hoá chúng ta bàn ở đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp.

Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hoá là nói đến những gì là tinh hoa, tinh tuý nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ [một con người có văn hoá, một gia đình có văn hoá, một dân tộc có văn hoá; lối sống văn hoá, nếp sống văn hoá, cách ứng xử có văn hoá,...]. Còn những gì xấu xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi... là vô văn hoá, phi văn hoá, phản văn hoá. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng.

Việt Nam là một đất nước có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích luỹ, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng của Dân tộc, làm nên hồn cốt của Dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền văn hoá chung của nhân loại. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hoá trong sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hoá của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hoá Việt Nam", trong đó chỉ rõ "Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận [chính trị, kinh tế, văn hoá]", và chủ trương phát triển văn hoá theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hoá, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945.

Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu "Văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá", "xây dựng đời sống mới", văn hoá Việt Nam đã thực sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", năm 1954.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cả nước ta đã tập trung vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến công tác văn hoá, động viên và cổ vũ đội ngũ văn nghệ sĩ và những lực lượng làm công tác văn hoá phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã xác định mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về văn hoá và áp dụng những nhận thức đó vào việc xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đảng ta đã nhấn mạnh đến công tác phát triển nền văn nghệ, báo chí, xuất bản, truyền thanh, điện ảnh, thư viện, bảo tồn bảo tàng, nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng của các công việc đó. Đồng thời, Đảng ta cũng đã đặc biệt quan tâm đến công tác văn hoá quần chúng, xây dựng các hoạt động và các thiết chế văn hoá ở cơ sở, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hoá mới, cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói quen và lối sống mới.

Sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1975 đã góp phần phát huy vai trò của văn hoá Việt Nam thực hiện nhiệm vụ vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, huy động được các binh chủng, các lực lượng làm công tác văn hoá của toàn dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành Đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Lời kêu gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"; "Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!" đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của Văn hoá Việt Nam!; "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh!"; thậm chí "Còn cái lai quần cũng đánh!" [chị Út Tịch]. Đồng thời: "Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa!".

Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đánh giá rất cao về những đóng góp của Ngành văn hoá, văn học nghệ thuật Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khẳng định: Nền văn hoá, văn nghệ nước ta xứng đáng đứng vào "Vị trí tiên phong của nền văn hoá văn nghệ chống đế quốc, phong kiến trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay". Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta chẳng những là Lãnh tụ thiên tài, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn là Nhà văn hoá kiệt xuất, được thế giới phong tặng danh hiệu vẻ vang "Danh nhân văn hoá thế giới"! [cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và mới hôm qua có thêm: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương].

Từ năm 1975 đến năm 1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, đất nước ta phải khắc phục hàng loạt những hậu quả của chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục bị tàn phá; thống nhất về thể chế và thiết chế văn hoá trên phạm vi cả nước. Đồng bào cả nước đã đồng cam, cộng khổ, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng để vượt qua những thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình hình phức tạp của quốc tế lúc đó gây ra.

Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Riêng về lĩnh vực văn hoá, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được về lĩnh vực văn hoá những năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII năm 1998 về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta đã chọn 8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng con người với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011], Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011] nêu rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Tiếp đó là Nghị quyết số 33 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá XI năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết này, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hoá. Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hoá phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng ta nhấn mạnh, văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc xây dựng văn hoá là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp… Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hoá và hoàn thiện thị trường văn hoá. Bộ Chính trị khoá XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Nhắc lại một cách vắn tắt như vậy để muốn khẳng định rằng: Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hoá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hoá ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi"! Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hoá tốt đẹp của Dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hoá của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hoá là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hoá và chính trị, văn hoá và kinh tế; xây dựng văn hoá trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hoá công chức, văn hoá công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể xây dựng và phát triển văn hoá là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hoá.

Như vậy, nhận thức của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề rất cơ bản để chúng ta quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế.

Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,

Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới gần đây, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hoá vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hoá và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.

Nhân dịp này, tôi xin được thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiệt liệt hoan nghênh, chúc mừng, biểu dương và cảm ơn những đóng góp to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn thể cán bộ, đảng viên và đặc biệt là của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của các lực lượng tham gia trên mặt trận văn hoá trong thời gian vừa qua.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hoá, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục. Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hoá. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc [nói nặng ra là "vô văn hoá", "phản văn hoá"].

Những yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Sự yếu kém, khuyết điểm này đã gây hệ luỵ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hoá của chúng ta.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Đặc biệt là trong công tác lãnh đạo, quản lý, chúng ta chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hoá của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hoá chậm được đổi mới, chưa thích ứng kịp thời với sự vận động và phát triển văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện đường lối văn hoá của Đảng còn thiếu đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả. Công tác tổ chức và công tác cán bộ trên lĩnh vực văn hoá còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hoá chưa cao. Chúng ta cần phân tích sâu sắc các nguyên nhân này để tìm cách khắc phục, nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc chấn hưng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời gian tới.

Hình ảnh tại Hội trường Diên Hồng, Hà Nội.

Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,

Với tầm nhìn từ nay cho đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế; niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới. Mặt khác, những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn hoá vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với phát triển văn hoá. Sự tác động của quá trình toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hoá số,... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hoá. Đồng thời, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức của an sinh truyền thống, an sinh phi truyền thống, nhất là sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh, trước hết là đối phó, thích ứng và sống cùng đại dịch COVID-19, vừa bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phát triển kinh tế - xã hội.

Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Có thể nói, phát triển văn hoá là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hoá, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Văn kiện Đại hội đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất".

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.

Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; xây dựng đời sống văn hoá vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền của đất nước.

Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hoá là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hoá sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hoá.

Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá.

Sáu là, xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh.

Để chấn hưng và phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam theo phương hướng nói trên, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp sau:

Trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về Văn hoá và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hoá. Khắc phục tư tưởng "duy kinh tế", chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hoá. Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm "văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội". Đại hội XIII của Đảng vừa qua đã xác định: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong thời gian tới là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đây là quan điểm chỉ đạo rất cơ bản cần phải được triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt trong nhiệm vụ của các ngành, các cấp.

Đối với công tác quản lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hoá đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hoá, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hoá từ trung ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hoá. Trong quá trình đa dạng hoá các hoạt động văn hoá, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hoá cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Thứ hai là xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hoá Việt Nam trong giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hoá, ở cả trung ương và địa phương. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Công tác lãnh đạo và quản lý văn hoá không chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, am hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, có tầm nhìn sâu rộng, có khả năng vận động và thuyết phục các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hoá. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hoá nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung. Bác Hồ đã từng căn dặn: "Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hoà mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp" [Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, trang 647]. Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hoá. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hoá nước nhà. Bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống văn hoá ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và phát triển văn hoá đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hoá, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam hiện nay.

Thứ ba là quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hoá Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới. Hiện nay, cả nước ta có tới 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng quốc gia với hơn 3 triệu hiện vật; 3.486 tổng di tích được xếp hạng quốc gia, trong đó có 1.626 di tích lịch sử; 105 di tích quốc gia đặc biệt; 288 di sản văn hoá phi vật thể quốc gia [riêng Hà Nội có 21 lễ hội]; 27 di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là "di sản văn hoá thế giới" [riêng tỉnh Bắc Ninh đã có 2 di sản văn hoá thế giới là Dân ca quan họ và Ca trù]... Đó là một tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm để lại, không phải nơi nào cũng có được; chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy. Nếu không là chúng ta có tội với lịch sử, là vong ân bội nghĩa với Tổ tiên, Cha ông chúng ta. Bác Hồ trước lúc đi xa vẫn còn dặn lại rằng: "Muốn yêu Tổ quốc mình thì phải yêu những khúc hát Dân ca!" [Nhạc sĩ Trần Hoàn với bài hát rất xúc động "Lời Bác dặn trước lúc đi xa"; "Giữa Mạc Tư Khoa tôi nghe câu hò ví dặm"].

Thứ tư là chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội ["Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng"; "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"; "Thương người như thể thương thân"; "Lá lành đùm lá rách"; "Lá rách ít đùm lá rách nhiều"; "Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ"; "Kính lão đắc thọ"; "Kính già, già để tuổi cho"; "Anh em như thể chân tay"; "Kính trên nhường dưới"; "Vợ ta đói rách ta thương, vợ người áo gấm xông hương mặc người"; "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn; Thuận bè thuận bạn tát cạn biển Đông"; "Đói cho sạch, rách cho thơm"; "Thật thà là cha quỷ quái"; "Tôn sư trọng đạo"; "Lời chào cao hơn mâm cỗ"; "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng"; giữ lấy "nếp nhà", giữ lấy "Chân quê" [bài thơ của Nguyễn Bính năm 1936]; giữ lấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt [bài thơ "Việt Bắc" của nhà thơ Tố Hữu năm 1954]... Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ v.v…

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân", nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hoá, các cơ quan làm công tác văn hoá. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khoá XI, XII và đặc biệt là các Kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khoá XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.

Thưa các vị đại biểu và các đồng chí,

Hội nghị văn hoá toàn quốc của chúng ta hôm nay là một dịp quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là những người làm công tác văn hoá, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ của cả nước, quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về việc xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta cùng nhau nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn và toàn diện hơn về vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của văn hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong việc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng tầm với sự nghiệp đổi mới và truyền thống lịch sử vẻ vang ngàn năm văn hiến của Dân tộc.

Tôi tha thiết mong rằng, sau Hội nghị này, công tác văn hoá của chúng ta sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới. Tôi tin rằng, với một Đất nước, một Dân tộc trọng văn hiến, trọng hiền tài, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; Nhân dân đoàn kết, cần cù, sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tâm huyết, tài năng, có trách nhiệm cao với Nhân dân, với Đảng, với Tổ quốc và tương lai của Dân tộc; cùng với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho Dân tộc, cho Giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, Đất nước ta ngày càng phồn vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một Dân tộc anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Và chỉ có như vậy thì chúng ta mới có thể nói rằng Hội nghị của chúng ta hôm nay có ý nghĩa thiết thực và thành công tốt đẹp về thực chất.

Xin chúc các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các quý vị đại biểu, các đồng chí và toàn thể đồng bào ta sức khoẻ, hạnh phúc và thắng lợi.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!”

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề