Vì sao các triều đại trung quốc

Your browser isn’t supported anymore. Update it to get the best YouTube experience and our latest features. Learn more

Remind me later

Khi triều đại của Lê Hiến Tông [trị vì từ 1497 - 1504] kết thúc vào đầu thế kỷ 16 là lúc bắt đầu một thời kỳ đau lòng khi đế quốc phải đối mặt với nhiều cuộc nổi dậy. Cuộc khủng hoảng này, xét cho cùng, là chuyện thường thấy trong lịch sử của một đất nước mà công cuộc xây dựng chính trị đặc biệt phức tạp và đầy biến động kể từ khi chính thức giành được độc lập vào năm 939 sau chiến thắng của Ngô Quyền ở Bạch Đằng. Những lục đục nội bộ này khiến tướng Mạc Đăng Dung lên nắm quyền và thành lập vương triều Mạc vào năm 1527. Tuy nhiên, triều đình nhà Lê có thể trông cậy vào sự ủng hộ của Nguyễn Kim, một quan lại trung thành với hoàng tộc. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của tướng Trịnh Kiểm, công cuộc tái thống nhất đất nước chấm dứt năm 1592. Dù vậy, sự thống nhất của một Đại Việt không chính thống dưới danh nghĩa nhà Lê chỉ còn là vẻ bề ngoài. Thực trạng quyền lực là sự tranh chấp giữa hai dòng họ Trịnh và Nguyễn, mỗi dòng họ đều cai trị dưới danh xưng của nhà Lê, dòng họ đầu là chúa phương Bắc [Đàng Ngoài, Bắc Hà hay Bắc kỳ theo các nguồn], dòng họ thứ hai là chúa miền Nam [Đàng Trong, Nam Hà hay Nam Kỳ]. Sự cân bằng bấp bênh này đã bị phá vỡ từ năm 1771 khi đối mặt với cuộc nổi dậy của anh em nhà Tây Sơn, những người đã giành chính quyền vào năm 1786. Nhưng vào năm 1792, sau cái chết không có người thừa kế của Nguyễn Huệ - người trị vì dưới tên Quang Trung, Nguyễn Ánh, người cuối cùng sống sót của gia đình chúa Nguyễn, sang tị nạn ở Xiêm La từ năm 1785, đã hưởng lợi từ những cuộc đấu đá nội bộ trong gia đình của cố hoàng đế. Được sự giúp đỡ của Pháp thông qua hành động của Giám mục Pigneau de Béhaine, ông vào Thăng Long năm 1802, lấy quốc hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô và với sự cho phép của Trung Quốc, ông đặt tên cho vương quốc là Việt Nam vào năm 1804.

Tuy trị vì một lãnh thổ đã được thống nhất lại dưới một chính quyền duy nhất, vương quyền nhà Nguyễn vẫn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội và chính trị từ nửa sau thế kỷ 19. Song song đó, sự thèm muốn của chủ nghĩa đế quốc Pháp, được thúc đẩy đồng thời bởi các lý do tôn giáo, kinh tế và chính trị đã khuyến khích nước này mở rộng ảnh hưởng của mình đối với Đế chế Tự Đức. Là một phần của động lực mở rộng lãnh thổ kéo dài từ năm 1858 đến năm 1884, Pháp cuối cùng đã áp đặt chính quyền của mình lên Việt Nam bất chấp sự phản kháng quyết liệt, thể hiện qua phong trào Cần Vương, kéo dài gần ba mươi năm và chưa từng đạt được thành quả. Các hiệp ước Harmand và Patenôtre năm 1883 à 1884 đã hoàn tất việc tước đoạt chủ quyền của Việt Nam. Đất nước được chia thành ba thực thể riêng biệt về mặt pháp lý, vùng thuộc địa Nam Kỳ, các vùng bảo hộ An Nam và Bắc Kỳ, được hợp nhất từ năm 1887 thành một kiến trúc duy nhất, Liên bang Đông Dương, bao gồm cả Lào và Campuchia. Bấy giờ dưới sự kiểm soát của nhà nước thuộc địa, nhà Nguyễn chỉ thực hiện quyền lực tượng trưng đối với các xứ bảo hộ An Nam và Bắc Kỳ, Nam Kỳ do chính quyền Pháp trực tiếp quản lý. Khuynh hướng độc lập của một số hoàng đế như Thành Thái [trị vì từ 1889 - 1907] hay Duy Tân [trị vì từ 1907 - 1916] đã bị đàn áp bằng việc lưu đày. Việc Bảo Đại thoái vị vào tháng 9 năm 1945 đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Nguyễn trên một đất nước bị chia cắt mãi đến năm 1945.

Bất chấp những thăng trầm này được đánh dấu bằng nhiều đổ vỡ trong đời sống chính trị Việt Nam, tính lâu dài vẫn được duy trì trong suốt nhiều thế kỷ.

Điều đầu tiên trong số này là sự tồn tại của một bộ máy quan lại [xem lại tiêu đề phụ "chế độ quân chủ"] với các quy tắc được hệ thống hóa vào thế kỷ 15: tuyển dụng bằng thi tuyển, thực tập, phân công theo nguyên tắc bổ nhiệm ngoài nguyên quán - tức là cấm một học giả-công chức làm quan tại nguyên quán xuất xứ của mình -, đánh giá định kỳ. Mặc dù không phải lúc nào nó cũng phù hợp với lý tưởng dân chủ, nhưng hệ thống này cũng không phải là một nhất thể bị phá hoại bởi chế độ chuyên quyền và tham nhũng. Ngược lại, đó là một cấu trúc năng động phản ánh sự phức tạp của xã hội Việt Nam, nơi lý tưởng của nhà nước bị tranh chấp bởi lực lượng dòng họmạng lưới người ủng hộ chính trị. Nó cũng nhắc lại những điểm mạnh và điểm yếu của quyền lực trung tâm nơi mà đôi khi một cuộc đối thoại phức tạp có thể tồn tại. Do đó, triều đại của Lê Thánh Tông ở thế kỷ 15 đã khởi đầu cho mong muốn hợp lý hóa hệ thống quan lại để làm cho nó hiệu quả hơn và dễ kiểm soát hơn, trong khi đó của Minh Mạng ở thế kỷ 19 được đặc trưng bởi sự tập trung quan liêu ngày càng tăng. Đối với thời kỳ thuộc địa, mặc dù là một bước phát triển lớn về tổ chức nhà nước, nhưng nó không nhất thiết đồng nghĩa với một tấm bảng trắng. Hệ thống quan lại thích nghi với chính tình hình chính trị mới đang cố gắng chống lại nó. Vì nhiều lý do khác nhau, bao gồm cả tình trạng thiếu hiệu quả kinh niên của mình, và để phù hợp với kinh lược cũng như Hoàng đế, nhà nước thuộc địa [tiêu đề phụ là “chính quyền thuộc địa”] ở Bắc Kỳ và An Nam cần phải dựa vào “kiến thức phục vụ” này để quản lý lãnh thổ mới bị xâm chiếm, ít nhất là cho đến năm 1918. Tổ chức lịch sử này của Nhà nước trên thực tế là nạn nhân của chính sách đồng hóa được tiến hành chủ yếu dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut, người đã biến nó thành phụ trợ cho nhà nước thuộc địa. Nhưng xa hơn việc trở thành những người hầu cận đặc quyền đơn thuần của một thế lực ngoại bang, một phần trong số các học giả mới này đã thúc đẩy sự phản kháng đối với sự hiện diện của Pháp.

Đặc điểm chính thứ hai trong các chính sách của chính phủ là sự phức tạp trong quan hệ với các lãnh thổ không phải của người Kinh được tích hợp vào Đế quốc, đặc biệt là trong cuộc Nam tiến giữa thế kỷ 11 và 18. Tại các khu vực ngoại vi này, quyền lực trung tâm đóng vai trò phân vùng có nhịp điệu thay đổi tùy theo cán cân quyền lực: đồng hóa, đặc biệt là thông qua chính sách hôn nhân; hội nhập vào kiến ​​trúc thiết chế với hình ảnh các dòng họ lớn của phương Bắc, những người đảm nhiệm chức năng chính thức canh giữ các biên giới và hưởng lợi từ các nhiệm vụ hành chính có thể chuyển giao cho con cháu, trừ thời vua Minh Mạng. Theo nghĩa này, chính sách thuộc địa có chút khác biệt so với thực tiễn của đế quốc Việt Nam với mối quan tâm tổng thể là hòa nhập những lãnh thổ này vào kiến ​​trúc quốc gia với những đặc điểm đã được khẳng định, ngay cả khi chúng có thể được hồi sinh, đặc biệt là vào thời kỳ đầu thành lập nhà nước thuộc địa.

Cuối cùng, quan hệ với Trung Quốc, cả về chính trị, kinh tế và văn hóa, cũng là một bất biến trong thực tiễn chính trị Việt Nam. Khác xa với quan hệ đối đầu, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam ban đầu là hữu cơ và đã sinh ra tinh hoa Trung-Việt. Sự độc lập chính thức đối với triều đình Bắc Kinh không đồng nghĩa với việc cắt đứt phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc khi mà việc triều cống được nộp theo thể thức và thời kỳ có thể thay đổi. Không phải một hành động trung thành như nhiều nhà quan sát phương Tây giải thích, việc cống nạp này trái lại thể hiện dấu hiệu chủ quyền của Việt Nam đối với Trung Quốc, nhằm tìm kiếm sự công nhận của nước này, để thiết lập tính hợp pháp cũng như có thể chống lại, nếu cần, các khuynh hướng can thiệp của Bắc Kinh trên lãnh thổ Việt Nam. Giống như thần Janus, chế độ quân chủ Việt Nam sử dụng thuật ngữ kép. Tự xưng đơn giản là vua với Triều đình Bắc Kinh, nhà cai trị lại xưng là hoàng đế đối với thần dân và các lãnh thổ mà ông muốn mở rộng ảnh hưởng của mình. Đổi lại, kế hoạch này đã được áp dụng một cách tương tự trong các mối quan hệ được duy trì bởi nhà nước quân chủ Việt Nam với chính quyền địa phương của các vùng ngoại vi trong lãnh thổ của mình. Sự tan rã của Đế chế Trung Quốc và sự thành lập của nhà nước thuộc địa là một thay đổi chính trị lớn. Mặt khác, về kinh tế và văn hóa, quan hệ giữa hai nước vẫn rất bền chặt. Nhiều lĩnh vực hoạt động vẫn nằm trong tay các cộng đồng người Hoa mà chính quyền thuộc địa, do được nuôi dưỡng bởi thành kiến thù ghét người Hoa, đã tìm cách kiểm soát, đặc biệt là tổ chức kiểm soát nhập cư rất mạnh mẽ.

Lịch sử Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và Pháp [tiêu đề phụ "ngoại giao"] đã được ghi lại bằng vô số tác phẩm và đã làm nảy sinh nhiều nghiên cứu khác nhau, được viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp, được lưu giữ ngày nay trong bộ sưu tập của Thư viện Quốc gia Pháp cũng như tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. Sự trùng lặp của hai câu chuyện, người Việt Nam và người Pháp, mời chúng ta khám phá dấu vết của họ thông qua các nguồn tài liệu kỹ thuật số được cung cấp trong tiêu đề hiện tại “Chính phủ và các triều đại” này.

Đăng tải tháng 2 năm 2021

21 tháng 12 2020

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Thành Tây Đô ở Thanh Hóa

Một sử gia Phương Tây đã giải thích lý do Hoàng đế Chu Đệ của nhà Minh bỏ 'trật tự thiên hạ' của cha mình để tấn công Đại Việt vào năm 1407 và xóa tên nước này, đổi thành quận Giao Chỉ.

Các sách dạy lịch sử ở Việt Nam thường coi khởi nghĩa Lam Sơn [1418-1427] giống như các cuộc đấu tranh chống xâm lược vào các thời kỳ Tiền Lê, Lý, Trần trước đó và Tây Sơn sau này.

Thực ra khởi nghĩa Lam Sơn có tính chất bước ngoặt hơn cả vì chấm dứt được nỗ lực thuộc địa hóa toàn diện của Minh với xã hội Việt và ngăn tiến trình Hán hóa do di dân Phương Bắc tới.

Vì sao Chu Đệ muốn gây chiến?

Quyết định của vua Minh, Chu Đệ đã phá vỡ 'trật tự Trung Hoa' trong quan hệ Trung - Việt đã định hình qua nhiều triều đại trước của Trung Quốc được Phó GS Kathlene Baldanza giải thích trong cuốn 'Ming China and Vietnam – Negotiating Borders in Early Modern Asia' [Cambridge University Press, 2016].

Nguồn hình ảnh, Hình do nhân vật cung cấp

Chụp lại hình ảnh,

Phó GS Kathlene Baldanza giải thích về chính sách của nhà Minh với xã hội Việt ̣đầu thế kỷ 15 trong cuốn 'Ming China and Vietnam - Negotiating Borders in Early Modern Asia'

Theo bà Baldanza, giai đoạn chuyển đổi triều đại từ Trần sang Hồ ở Đại Việt và cuộc chiến Hồ - Minh chịu tác động bởi tư duy của hai hoàng đế Chu Nguyên Chương [1368-1398] và Chu Đệ [1402-1424].

Chu Nguyên Chương giành ngôi báu, xưng danh Minh đế Hồng Vũ, nóng ruột muốn khôi phục quan hệ với Đại Việt, Champa, Triều Tiên và một số nước mà Minh coi là “phiên quốc”.

Việc “xác lập lại trật tự Minh [Ming Order] bằng chế độ triều cống từ các nước láng giềng” mà Minh gọi là Di [Yi] được Chu Nguyên Chương đích thân đặt ra, và văn bản đó “có tính ràng buộc với các đời hoàng đế kế nhiệm ông ta”, bà Baldanza viết, trích các tài liệu gốc thời Minh.

Chu Nguyên Chương nêu rõ “Triều Tiên, Nhật Bản, Đại Lưu Cầu [Great Ryukyu], Tiểu Lưu Cầu [Lesser Ryukyu], An Nam, Xiêm La, Chăm Pa, Sumatra, Tích Lan... là những quốc gia mà Minh sẽ không tiến đánh”.

Nhu cầu an ninh buộc Minh phải lo về các tộc du mục phía Bắc và hậu duệ của Nguyên vẫn đe dọa họ, nên việc ổn định quan hệ với các nước phía Nam là hết sức cần thiết.

Theo bà Baldanza, Chu Nguyên Chương đã dùng nhãn quan Hoa – Di để giải thích cho quần thần, những người kế nghiệp và cảnh báo về thất bại nếu Minh đánh các nước ông ta cho là chưa đủ tầm hiểu văn minh Trung Hoa.

“Tứ Di có núi sông ngăn trở, có đại dương cách biệt với chúng ta, và đều nằm nơi heo hút. Có chiếm đất họ thì đất đó không đủ nuôi chúng ta, có làm chủ dân của họ thì chúng cũng chẳng cung phụng nổi ta...Nếu đem quân sang mà thiếu cẩn trọng, đó sẽ là sự tai hại vô cùng lớn...” [tạm dịch từ bản tiếng Anh, trang 53].

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Tranh vẽ chân dung Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương

Vì sao sang thời Chu Đệ, nhà Minh lại quyết tâm đánh Đại Việt, và sát nhập vào đế chế?

Bà Baldanza giải thích rằng vụ tiếm ngôi của hoàng tử thứ tư, Chu Đệ, người không được phong thái tử khi vua cha Chu Nguyên Chương còn sống, có tác động đến nhãn quan địa chính trị của ông ta.

Trong sự kiện Tĩnh Nam chi biến, Yên Vương Chu Đệ dấy binh, chiếm kinh đô, vua Minh Huệ Tông chết cháy trong đám loạn quân.

Cướp được ngai vàng, Chu Đệ xưng hiệu Vĩnh Lạc [Minh Thành Tổ] và là hoàng đế hiếu chiến hơn các vua Minh trước.

“Trong 22 năm tại vị, ông ta liên tiếp động binh, đánh quân Mông Cổ, chiếm Mãn Châu, mở bờ cõi tới tận vùng Tarim [Tien-Shan, Pamirs]... và học theo tấm gương của các đời đế chế Hán, Đường cũng như Hốt Tất Liệt của Nguyên,” cuốn sách viết.

Chính sách bành trướng xuống phía Nam của Chu Đệ cần được đặt trong tham vọng vươn ra biển của ông ta.

Giai đoạn Trịnh Hòa đem thuyền sang tận Nam Á và Hồng Hải [1405-1433] bắt đầu chính là vào thời Chu Đệ cầm quyền.

Nhưng với chiến dịch đánh nhà Hồ năm 1406, Chu Đệ không chỉ bỏ lời dặn của cha, mà còn cần được thuyết phục cụ thể về quân sự rằng quân Minh sẽ chiến thắng.

Người đem lại câu trả lời cho ông ta chính là Trương Phụ [Zhang Fu, 1375-1449], theo nghiên cứu của Phó GS Kathlene Baldanza.

Không chỉ là đại thần [tước Tân thành hầu], Trương Phụ còn là người tâm phúc của Chu Đệ khi ông ta ở chức Yên Vương.

Giúp chủ giành ngôi báu, Trương Phụ lại có em gái làm vương phi, nên đã trở thành người được vua hoàn toàn tin tưởng.

Năm 1406, Trương Phụ được phong Chinh Di tướng quân để đem binh hùng tướng mạnh đánh nhà Hồ.

Tuy thế, theo bà Baldanza, một lập luận của Trương Phụ về quan hệ Trung - Việt có ý nghĩa bước ngoặt với quyết định của vua Minh.

Họ Trương “bác bỏ quan niệm An Nam là phiên quốc”, mà coi xứ sở này chính là một phần đất lịch sử của Trung Hoa, và cần phải đem trở lại lãnh thổ, như thời Hán, Đường.

Trương Phụ dâng biểu miệt thị với phong tục địa phương, nhưng chứng tỏ ông ta biết khá rõ về phong tục người Việt như 'xăm mặt'.

Trương nói cần “dùng binh trừng phạt, dùng văn để thuần hóa”, và xác nhận “bản tính nổi loạn” của dân An Nam nhưng tin là về lâu dài thì Trung Quốc sẽ “cải biến văn hóa” thành công.

Trương Phụ cũng bác bỏ luận điểm [của vua Minh thời lập quốc] là việc chiếm các xứ Tứ Di chẳng đem lại lợi ích kinh tế gì.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Tranh vẽ Minh Thành Tổ Chu Đệ

Sau khi diệt xong nhà Hồ, ông ta đề xuất chiếm giữ vì nguồn lợi kinh tế:

“Vượt quá vị trí đáng ra của chúng, dân An Nam đã theo thói độc địa, tiếm quyền và nổi loạn....Nay, chúng ta đã tống tiễn vài trăm mạng còn xăm mặt, thè lưỡi lên trời. Mấy ngàn dặm đất có nghề làm muối, nguồn cá đã trở về Trung Hoa.”

Mâu thuẫn Kinh – Trại và di dân từ Phương Bắc

Thế nhưng một luận điểm khác nữa Trương Phụ đã dùng để thuyết phục vua Minh biến An Nam thành một tỉnh của Trung Hoa là sự ủng hộ của người địa phương.

Sự thực là Trương Phụ đã nhận được thư đầu hàng của Mạc Thuý, tướng nhà Hồ, đại diện một phái trong cư dân kinh đô và vùng duyên hải chọn sự hợp tác với Minh.

Thư được Minh Thực Lục ghi lại, và theo bản Kathlene Baldanza trích bằng tiếng Anh thì nội dung nói rằng “người dân An Nam” mong chờ được trở về với Trung Hoa.

Lá thư viết An Nam “là đất cổ xưa thuộc Trung Hoa, sau bị bỏ quên, và rơi vào phong tục Man Di, quên mất lễ nghĩa [liyi] và may mắn nhờ triều đại thông thái [sage dynasty – nhà Minh] quay trở lại, quét sạch thói rợ xấu xa đi, và binh, dân, nam phụ lão ấu đều vui mừng nhìn thấy áo mũ văn minh mà đi theo...”

Niềm tin rằng một số không nhỏ người bản xứ ủng hộ nhà Minh đã khiến nhà Minh đồng ý duy trì quân đội tại vùng chiếm đóng mới.

Bỏ qua vấn đề Mạc Thuý đại diện cho con số đông đảo hay ít ỏi người dân triều Hồ để cầu mong nhà Minh sang “cứu họ”, TS Kathlene Baldanza cho rằng xã hội Việt Nam khi đó “có mâu thuẫn nội tại sâu sắc” nên nói rằng “giới ưu tú của họ ủng hộ Minh” cũng là rất có cơ sở.

Tuy thế, bà Baldanza còn chú ý tới cấu trúc dân số: “con cháu một số lượng đông đảo di dân thời Tống chạy sang Đại Việt ồ ạt [nguyên văn: flooding Dai-Viet] để trốn tránh quân Nguyên, rất có thể đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra phái ủng hộ quân Minh” [trang 68].

Mặt khác, cuộc kháng chiến của phái Trần Quý Khoát và sau này là Lê Lợi đã khiến Minh phải triển khai quân tới từng cấp địa phương để liên tục đàn áp để biến nước Nam thành thuộc địa.

Cùng lúc, Minh phát triển hệ thống giáo dục theo mô hình của họ và mở cả các khoa thi, tuyển nhân tài dùng chữ Hán phục vụ cho đế chế.

Cuộc chiến chống Minh khởi phát từ phía Tây Nam, khu vực truyền thống ít ảnh hưởng của Trung Hoa, còn mang tính cách chống người Ngô, có mặt rộng rãi trên lãnh thổ khi đó.

Theo bà Baldanza, là “khẩu hiệu của Lê Lợi và những người miền núi theo ông có tính phản Minh, chống người Ngô, chống Trần, và chống dân vùng duyên hải” [anti-Ming, anti-Ngo [Chinese], anti-Tran and anti-coastal].

Nhưng vì sao các tác giả Phương Tây chú ý vào sự chia rẽ nội bộ xã hội Đại Việt này, coi đó là một yếu tố hỗ trợ cuộc chinh phục của Minh?

Trả lời câu hỏi của nhà báo Nguyễn Giang [tháng 12/2020] bà Kathlene Baldanza giải thích như sau:

“Ý tưởng của tôi đến từ đánh giá của John Whitmore, người đã nhấn mạnh đến những phân rẽ nội bộ Việt Nam, hơn là cách nhìn tương quan Trung – Việt. Whitmore đã gọi đây là mâu thuẫn duyên hải đối chọi với thượng du. Trong đó Hà Nội và vùng duyên hải đại diện cho những người là hậu duệ của dân Trung Hoa, và quen thuộc hơn với truyền thống văn chương Hán học, còn Lê Lợi đại diện cho thế giới của các động núi [động là từ gốc Tày-Thái], không gian của dân miền ngược, với truyền thống chính trị khác dân miền xuôi.”

Trước câu hỏi về tính Hán hóa đã có trong văn hóa miền xuôi của người Việt có phải khiến họ, hoặc một con số đông đảo là con cháu di dân từ Trung Hoa thời Tống chạy sang tỵ nạn với nhà Trần, thấy sẵn sàng về theo Minh, bà Baldanza cho biết:

“Về yếu tố Hán hóa [Sinitic] trong văn hóa Việt Nam thì thực ra nó đã được nội hóa, trở thành phần không thể tách khỏi của văn hóa Việt, tất nhiên là cạnh đó vẫn có các dòng, nét đặc thù của văn hóa Việt.”

Khi được hỏi là nếu tiến trình thuộc địa hóa kéo dài hơn 20 Năm thì Việt Nam liệu đã bị Hán hóa toàn diện hay không, bà Baldanza trả lời rằng đây là vấn đề khó xác định:

“Cuộc xâm chiếm thuộc địa của Minh có tính kinh điển, tức là khai thác bóc lột về kinh tế, nhưng rút cuộc thì lợi nhuận Minh thu về không đủ trang trải cho chi phí duy trì thuộc địa. Một điểm quan trọng nữa là nhà Hồ đã áp dụng một số cải cách mạnh tay, và bị Minh chấm dứt. Có thể điều Minh cho phép chính là làm tăng tốc việc kết hợp khối dân cư miền xuôi, và miền ngược. Và họ đã hợp sức để đánh đuổi Minh đi.”

Tạo lập thế giới quan khác Trung Hoa

Khởi nghĩa Lam Sơn [1418-1427] thắng lợi đã làm sụp đổ dự án của Minh muốn biến Đại Việt thành thuộc địa vĩnh viễn.

Mục tiêu Hán hóa toàn bộ xã hội phương Nam của nhà Minh qua giáo dục, đồng hóa, di cư trí thức, thanh thiếu niên về Trung Hoa và di dân từ phía Bắc xuống cũng phải vứt bỏ.

Cuộc sát nhập An Nam vào Minh còn tạo ra giao lưu thân mật giữa các nhân vật khởi nghĩa và quan lại Minh một khi hai bên ngưng chiến, mà nay ta có thể thấy khó hiểu.

Đại Việt Sử ký Toàn thư mô tả cảnh Lê Lợi tiễn tướng địch:“Ngày 17, Vương Thông cùng vua nói chuyện từ biệt suốt đêm rồi đi. Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ, các lễ vật tiễn chân rất hậu...”

Vẫn nghiên cứu của TS Baldanza cho hay sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thành công “86 nghìn quân Minh rút về, còn số bị chết, hoặc ở lại Đại Việt thì không đếm được”.

Đại Việt Sử ký Toàn thư cho hay, Lê Thái Tổ sau khởi nghĩa thành công đã phải “yết thị nghiêm cấm, hễ người nào chứa chấp quan quân nước Minh...thì giết không tha. Người ra thú lục tục đưa về Yên Kinh.”

Tức là vẫn có những người gốc Phương Bắc đã định cư, có thể lập gia đình, và được bao bọc, che trở sau cuộc chiến.

Sau thắng lợi, Lê Lợi và các đại thần gốc xứ Thanh cũng đã loại bỏ dần các công thần gốc Thăng Long.

Đây có phải là quyết định nhằm giải quyết nối ảnh hưởng của giới Nho sĩ, tướng lĩnh “bị ảnh hưởng” của văn hóa cũ, văn hóa Minh?

Theo bà Baldanza thì cố GS John Whitmore đã nói đến cuộc thanh trừng này [Le Loi moved against his rivals], nhưng cho rằng đây có thể nhìn như một cuộc xung đột chính trị mang tính vùng miền, hơn là văn hóa.

Chu Đệ qua đời năm 1424, để lại vấn đề phía Nam cho cháu ông ta, Minh Tuyên Tông.

Minh Sử đổ lỗi cho Vương Thông là “tướng nhát gan” gây ra thất bại trong cuộc chiến vì tự ý đầu hàng khi chưa có lệnh.

“Dù lý do thua là vì Vương Thông hay lỗi của ai khác, vua Minh thấy đã quá đủ, và đành bỏ chủ quyền tại Đại Việt, rút quân về nước năm 1427.”

Đại cáo Bình Ngô gọi Minh là 'giặc', bác bỏ tính chính danh về văn hóa của Minh và nhận mình là triều đại 'văn hiến chi bang'.

Đây là cách để Lê Lợi thuyết phục nhóm cư dân đô thị nhất là ở Thăng Long đã bị Minh hóa sâu đậm thần phục vương triều mới.

Kathlene Baldanza viết rằng lần đầu tiên người Việt muốn rạch ròi về vị thế “hoàng đế phương Bắc và hoàng đế phương Nam” [The nothern emperor and the southern emperor].

Không chỉ thoát ra khỏi số phận thuộc địa, Việt Nam bác bỏ cả vị thế phiên quốc và muốn trở thành đế chế phía Nam, đối lập với Trung Hoa.

Khởi nghĩa Lam Sơn như thế đã định hình quan hệ Việt – Trung theo nhãn quan mới của người Việt cho nhiều thế kỷ về sau.

Nhà Minh không chấp nhận thế giới quan này của người Việt và khoảng 100 năm sau lại đem quân tới biên giới, thách thức quốc gia láng giềng phía Nam, Kathlene Baldanza viết trong chương sau.

Chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc BBC News Tiếng Việt về bản chất tư duy của nhà Minh về Việt Nam qua cuộc khủng hoảng Lê-Mạc trong bài tới.

Hồ - Minh đại chiến: Vì sao Hồ Quý Ly thất bại?

Năm anh em Trương Xuyên 'thay đổi Nhật Bản'

Tây Sơn không phải 'Cách mạng Giải phóng'

Video liên quan

Chủ Đề