Vì sao người do thái bị diệt chủng

Trong cuộc họp kéo dài đúng 90 phút, nơi các quan chức cấp cao Đức Quốc xã được phục vụ rượu và đồ nhắm, chủ đề chính được thảo luận là "Những bước hoạch định về tổ chức, hậu cần và vật chất cho giải pháp cuối cùng với người Do Thái ở châu Âu". Kết quả là kế hoạch diệt chủng người Do Thái [Holocaust] được lập ra.

Biên bản cuộc họp được đánh máy trên 15 trang giấy không đề cập rõ ràng đến hành vi giết người. Thay vào đó, họ sử dụng các cụm từ như "sơ tán", "giảm thiểu" hay "điều trị" và phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan chính phủ khác nhau với "những chuyên gia thích hợp".

"Bạn đọc biên bản và cảm thấy lạnh sống lưng", Deborah E. Lipstadt, học giả nổi tiếng nghiên cứu về nạn diệt chủng người Do Thái, cho biết. "Tất cả đều là ngôn ngữ ngụy trang. Nhưng sau đó, bạn nhìn vào danh sách các quốc gia và số lượng người Do Thái mà họ định giết. Họ nhắm tới 11 triệu người. Họ đã lên một kế hoạch lớn".

Những người sống sót trong thảm họa Holocaust tại trại tập trung Auschwitz-Birkenau của Đức Quốc xã ở Ba Lan vào năm 1945, sau khi nơi này được giải phóng. Ảnh: Reuters.

80 năm sau, cuộc họp định mệnh bên hồ Wannsee gây chú ý trong bối cảnh những người sống sót sau thảm họa diệt chủng năm xưa đang ngày càng ít dần. Chủ nghĩa bài Do Thái cũng như tư tưởng người da trắng thượng đẳng đang trỗi dậy mạnh mẽ ở châu Âu và Mỹ. Trên khắp thế giới, ngày càng xuất hiện nhiều cuộc tấn công nhằm vào người Do Thái và các dân tộc thiểu số khác.

Tại Đức, nơi nạn bài Do Thái cũng đang có chiều hướng gia tăng, giới chức đã công khai cảnh báo rằng chủ nghĩa cực hữu cực đoan và khủng bố là mối đe dọa lớn nhất với nền dân chủ.

Ngày nay, biệt thự ba tầng trên bờ hồ từng là nhà khách của Đức Quốc xã và là nơi tổ chức Hội nghị Wannsee trông bề ngoài hầu như không thay đổi. Suốt nhiều thập kỷ sau đó, chính quyền Tây Đức đã phải đau đầu trước câu hỏi phải làm gì với tòa nhà.

Trong khi những người sống sót thúc ép chính phủ biến nó thành nơi để tìm hiểu về thảm họa diệt chủng và ghi lại tội ác của phát xít, giới chức lại tỏ ra lưỡng lự. Một số người bày tỏ quan ngại rằng biệt thự sẽ trở thành nơi hành hương của những phần tử ủng hộ Đức Quốc xã. Số khác thì muốn san bằng nó để xóa sổ hoàn toàn mọi thứ thuộc về "ngôi nhà kinh hoàng này".

Joseph Wulf, thành viên phong trào kháng chiến Do Thái đã thoát khỏi cuộc đại diệt chủng và trở thành nhà sử học nổi tiếng sau chiến tranh, từng dẫn đầu một chiến dịch yêu cầu biến biệt thự thành khu tưởng niệm và viện lịch sử. Phía trên bàn viết của mình, ông ghim một dòng chữ bằng tiếng Do Thái tưởng nhớ 6 triệu người Do Thái đã bị Đức Quốc xã sát hại: "Hãy nhớ!!! 6.000.000".

Đề xuất của Wulf liên tục bị từ chối và trong một bức thư gửi cho con trai mình vào năm 1974, ông đã tỏ rõ nỗi tuyệt vọng: "Bạn có thể cung cấp cho người Đức bằng chứng cho đến khi kiệt sức", ông viết. "Đây là chính phủ dân chủ nhất từng tồn tại nhưng những kẻ sát nhân hàng loạt vẫn tự do đi lại, sở hữu những ngôi nhà nhỏ và trồng hoa trên chúng". Wulf tự sát vài tháng sau đó.

Những năm 1980, ngôi biệt thự trở thành nhà trọ cho các thanh niên trong những chuyến đi học xa. Chỉ sau khi nước Đức tái thống nhất, vào năm 1992, nó mới được biến thành một khu tưởng niệm.

Đối với nhiều người, kỷ niệm Hội nghị Wannsee có lẽ ít quan trọng hơn so với sự kiện giải phóng trại tử thần Auschwitz hay cuộc nổi dậy ở khu ổ chuột Warsaw, vốn tập trung vào các nạn nhân của khủng bố Đức Quốc xã. Nhưng đây là ngày hiếm hoi mà các thủ phạm gây ra họa diệt chủng Do Thái tập trung lại một chỗ, đồng thời cho thấy mức độ tàn khốc của bộ máy diệt chủng của phát xít Đức.

Người chủ trì cuộc họp hôm đó là Reinhard Heydrich, giám đốc quyền lực của cơ quan an ninh và lực lượng Waffen SS, "đội quân đồ tể" tàn bạo bậc nhất phát xít Đức. Heydrich được Hermann Goring, cánh tay phải của Hitler, giao phụ trách lên kế hoạch cho "giải pháp cuối cùng" và phối hợp thực hiện nó với các ban ngành khác trực thuộc chính phủ.

Những người được Heydrich mời họp đều là quan chức cấp cao trong chính quyền Đức Quốc xã. Hầu hết trong số họ ở độ tuổi ngoài 30, 9 người có bằng luật, hơn một nửa có bằng tiến sĩ.

Trong lúc họ tập trung quanh một chiếc bàn nhìn ra hồ Wannsee, tội ác diệt chủng vẫn diễn ra. Việc trục xuất và sát hại người Do Thái ở các vùng lãnh thổ phía đông đất nước đã bắt đầu từ mùa thu trước, nhưng cuộc họp ngày 20/1/1942 đã đặt nền móng cho một cỗ máy giết người hàng loạt có sự tham gia của toàn bộ bộ máy Đức Quốc xã và cuối cùng là hàng triệu người Đức trong các vai trò khác nhau.

Adolf Eichmann, quan chức đứng đầu bộ phận "trục xuất và các vấn đề liên quan đến người Do Thái" thuộc Bộ Nội vụ, người sau này sẽ đảm nhận việc đưa người Do Thái tới các trại tử thần, được yêu cầu lập biên bản cuộc họp. Chỉ một trong 30 bản sao của biên bản 15 trang cộp dấu "mật" còn được lưu lại đến ngày nay. Nó được lính Mỹ phát hiện trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Đức Quốc xã sau chiến tranh.

Biên bản của Eichmann đã tóm tắt phạm vi nhiệm vụ trong một bảng thống kê chi tiết về dân số Do Thái trên khắp châu Âu, không chỉ bao gồm Liên Xô mà còn cả Anh, Ireland và Thụy Sĩ.

"Việc di cư hiện được thay thế bằng cách di tản người Do Thái về phía đông như một giải pháp khả thi khác", biên bản có đoạn. "Trong quá trình giải quyết câu hỏi cuối cùng về người Do Thái này, khoảng 11 triệu người Do Thái sẽ được xem xét".

Tài liệu sau đó tiếp tục trình bày một số chi tiết trong giải pháp cuối cùng.

"Người Do Thái sẽ được điều đến lao động ở phía đông theo cách phù hợp", biên bản cho hay. "Phân theo các nhóm lớn, chia theo giới tính, những người Do Thái có khả năng lao động sẽ được cử đến các vùng này để xây dựng đường sá. Trong quá trình đó, chắc chắn một phần lớn sẽ bị loại bỏ nhờ sàng lọc tự nhiên. Những người cuối cùng còn lại phải được quan tâm phù hợp vì chắc chắn họ đại diện cho những bộ phận kháng cự mạnh nhất".

Biệt thự ở Wannsee, nơi các quan chức Đức Quốc xã lên kế hoạch Holocaust vào năm 1942. Ảnh: AP.

"Những người Do Thái sơ tán trước tiên sẽ được đưa theo từng nhóm đến cái gọi là các khu quá cảnh, từ đó họ sẽ được chuyển về phía đông", văn bản tiếp tục. "Liên quan đến cách thức thực hiện giải pháp cuối cùng ở các lãnh thổ châu Âu mà chúng ta đang kiểm soát hoặc có ảnh hưởng, chúng tôi đề nghị các chuyên gia liên quan trong Bộ Ngoại giao nên trao đổi với quan chức có trách nhiệm của Cảnh sát An ninh và SD".

Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản không mang sắc thái chết chóc, nhưng ai cũng hiểu mục tiêu mà nó hướng đến: "Loại bỏ hoàn toàn người Do Thái ở châu Âu", như Joseph Goebbels, lãnh đạo cơ quan tuyên truyền của Hitler, viết trong nhật ký sau khi đọc biên bản.

15 người dự Hội nghị Wannsee đều trực tiếp tham gia vào kế hoạch diệt chủng người Do Thái. Một số chỉ huy hoặc tổ chức các đội giết người, số khác xây dựng cơ sở pháp lý cho tội ác này.

6 người trong số họ đã chết vào năm 1945. Chỉ có hai người hầu tòa vì vai trò trong kế hoạch Holocaust sau chiến tranh. Eichmann bị hành quyết ở Israel sau nhiều năm lẩn trốn ở Argentina. Wilhelm Stuckart, đồng tác giả của luật chủng tộc Nuremberg, được trả tự do vào năm 1949.

Ba người khác bị xét xử vì những tội danh không liên quan và được tuyên mức án nhẹ, trong khi 4 người không bao giờ bị kết tội. Gerhard Klopfer, một quan chức cấp cao trong bộ máy của Hitler, đã làm luật sư suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh. Khi Klopfer chết vào năm 1987, gia đình ông đưa ra một bản cáo phó, trong đó ghi rằng ông đã sống "một cuộc đời viên mãn, vì lợi ích của tất cả những ai thuộc phạm vi ảnh hưởng của ông".

80 năm sau Hội nghị Wannsee và 77 năm sau khi Thế chiến II kết thúc, các nhân chứng cho những hành động tàn bạo của Đức Quốc xã đang chết dần.

Khi tiến sĩ Lipstadt, 74 tuổi, lần đầu tiên giảng dạy về Holocaust hơn ba thập kỷ trước, bà rất dễ dàng tìm thấy những người sống sót để trò chuyện với các sinh viên của mình. "Bây giờ, tôi chỉ hy vọng có thể tìm thấy một người đủ sức khỏe để đến dự giờ học cùng chúng tôi", bà nói.

Vũ Hoàng [Theo NY Times]

Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rằng, 1/10 số nạn nhân Do Thái trong thảm trạng đó chính là những người Do Thái từ Hungary, nơi mà chính sự gắn kết giữa chính quyền sở tại và Đệ tam Đế chế Đức lại đẩy họ đến bước đường cùng rất thảm thương. Tại nước này, cứ vào dịp tháng 4-5 hàng năm, các nạn nhân Do Thái của Thế chiến thứ hai lại được nhắc nhớ trong khuôn khổ những cuộc tuần hành lớn mang tên “Tuần hành vì cuộc sống”.

Thường được khởi đầu tại một tượng đài rất đặc biệt mang tên “Những đôi giày bên bờ sông Danube”, cạnh Nhà Quốc hội Hungary, đoàn người tham dự một lần nữa được chứng kiến hiện trường một trong những địa điểm hành quyết sắc dân Do Thái, khi đó bị bắt phải cởi hết quần áo và giày dép, nhiều khi bị trói giật cánh khuỷu với nhau cả đoàn, để rồi bị xả súng bắn ngay xuống con sông lạnh giá trong mùa đông khắc nghiệt năm 1944.

60 đôi giày sắt đủ các kích cỡ, của trẻ em, phụ nữ, đàn ông... bên bờ Danube, tạo thành một quần thể được bình chọn là một trong những tượng đài chiến tranh cảm động nhất thế giới, ghi nhớ “con đường thương khó” của người Do Thái tại Hungary, mà gần đây nhất, một nữ chính khách nước này đã so sánh với sự khổ nạn của Chúa Jesus, và khẳng định đây là “bi kịch của con người và về con người”, về bất cứ ai, “bằng da, thịt và xương”.

Con đường dài bi thảm

Để hiểu được nguồn cội của nỗi đau này, cần trở lại những năm giữa hai cuộc Thế chiến, khi Vương quốc Hungary phải dựa vào Đệ tam Đế chế để được gượng dậy về mặt kinh tế sau cú sốc Trianon năm 1920, lúc quốc gia này bị đánh mất 2/3 diện tích đất nước và 2/3 dân số bởi quyết định của “phe thắng cuộc” sau Thế chiến thứ nhất. Thoát khỏi sự sụp đổ vì đòn quá nặng này, nhưng Hungary lại rơi vào vòng kiềm tỏa chính trị của Đức quốc xã.

Từ giữa thập niên 30, do tác động của nước Đức, Hungary đã bắt đầu đưa vào luật những điều khoản kỳ thị và phân biệt đối xử với sắc dân Do Thái, và từng bước cấm đoán, loại trừ họ khỏi đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất nước. Với thời gian, quyền công dân và dân sự của người Do Thái ở Hungary cũng bị giảm thiểu, phù hợp với tiến độ của cái gọi là “giải pháp tối hậu” [Endlösung] mà nước Đức đặt ra với sắc dân này.

Dự cảm được về một tương lai đen tối, nhiều người Do Thái tại Hungary - đặc biệt là giới trí thức, khoa học và các gia đình hữu sản - đã tìm cách rời Hung qua Phương Tây, rồi sang Hoa Kỳ, Canada... lánh nạn trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Trong số đó, có không ít những nhà bác học lớn, về sau được giới khoa học thế giới gọi bằng cái tên “Người Hỏa tinh”, đã có vai trò trụ cột trong các dự án bom nguyên tử và khinh khí của Mỹ sau này.

Có điều, đa số dân Do Thái trên lãnh thổ Vương quốc Hungary thì không có điều kiện như vậy. Sau khi Thế chiến nổ ra vào đầu tháng 9/1939, rồi Hungary tham chiến vào cuối tháng 6/1941, thì số phận của sắc dân Do Thái coi như đã được an bài, với khái niệm Holocaust như là sự thảm sát, diệt chủng hàng loạt trên tầm nhà nước của Đức quốc xã, được thực hiện ở quy mô công nghiệp, mà người Do Thái là những nạn nhân hàng đầu.

Hạ tuần tháng 1/1942, tại Hội nghị Wannsee được nhóm họp ở một tòa lâu đài ở ngoại ô Berlin, các quan chức Đức quốc xã đã thông qua một kế hoạch nhằm khởi thảo và thực hiện “giải pháp tối hậu” đối với sắc dân Do Thái trên toàn châu Âu, với con số còn lưu trong biên bản là 11 triệu người. Trong biên bản, số người Do Thái cần tận diệt ở từng quốc gia được xác lập, trong đó, con số nạn nhân Do Thái được trù liệu ở Hungary là 742.800.

Tuy nhiên, dưới thời của Thủ tướng Kállay Miklós [1942-1944], nước Hung có những nỗ lực muốn thoát khỏi cuộc chiến, đoạn tuyệt với nước Đức và do đó, nước này tránh tuân thủ chính sách diệt chủng dân Do Thái của Đức quốc xã. Trái với phần còn lại của Châu Âu, nơi cộng đồng Do Thái bị bách hại, ở Hungary sắc dân Do Thái cảm thấy được an toàn, và người Do Thái ở các nước lân cận còn trốn chạy sang Vương quốc Hungary lánh nạn.

Ít ai ngờ được rằng, tử thần đang chờ họ ở khoảng cách rất gần! Phía Đức, khi cảm thấy đồng minh Hungary có những biểu hiện ngoại giao với phe Đồng Minh, đã ngấm ngầm chuẩn bị cho chiến dịch mang tên Margarethe để chiếm giữ một số căn cứ điểm quân sự quan trọng nhất của Hung trong thời gian cuối của Thế chiến. Mặc dù đã có những nguồn tin mật chính xác về kế hoạch này, lãnh đạo Hungary vẫn không có kế sách chống lại.

Người Do Thái Hung đến trại Tử Thần năm 1944 [Ảnh tư liệu tác giả chụp tại Triển lãm diệt chủng ở trại Auschwitz, miền nam Ba Lan] © Hoàng Nguyễn - RFI/Vietnam

Khổ nạn Holocaust của Hungary

Trong số những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của Holocaust, Hungary đặc biệt ở chỗ, tại đây, sự đày ải và diệt chủng sắc dân Do Thái đã diễn ra với sự “hợp tác” và ủng hộ hết sức nhiệt tình của chính quyền và lực lượng hiến binh [csendőrség] nước này. Ngay sau khi bị Đức quốc xã đưa quân chiếm đóng vào ngày 19/3/1944, chính phủ thân Đức sau đó của Hung đã ban hành hàng trăm sắc lệnh có nội dung bài xích người Do Thái.

Trước tiên, dân Do Thái bị buộc phải “cống nạp” các vật dụng được coi là quý thời đó, như xe hơi, điện thoại, đài điện ... để rồi sau đó, mọi tài sản của họ đều bị “phong tỏa”. Không chỉ bị cấm hành nghề bác sĩ, ký giả, trạng sư, diễn viên, không được kinh doanh và có cửa hiệu, không được làm trong bộ máy hành chính, dân Do Thái tại Hungary còn bị hạn chế đi lại và cấm bén mảng tới những nơi vui chơi giải trí công cộng, rạp phim, nhà hát.

Họ bị hạn chế lượng thực phẩm hàng ngày, thậm chí, một học viện còn được thành lập để “nghiên cứu khoa học” về “tính chất chủng tộc” của sắc dân Do Thái. Ngôi sao vàng sáu cánh David mà người Do Thái buộc phải đeo trên ngực áo - như dấu hiệu phân biệt một cách nhục nhã - đã vĩnh viễn biến họ trở thành những tử tù tiềm ẩn. Cánh cổng tử thần đã được mở ra trước họ, mà không ai biết tới và có thể làm được bất cứ điều gì để kháng cự!

Ít tuần sau, ngày 16/4/1944, một sắc lệnh được phê chuẩn nhằm “sung công” toàn bộ nhà cửa của dân Do Thái và người Do Thái thì bị ép buộc phải vào những biệt khu [ghetto]. Trong vòng 2 tháng rưỡi, trên toàn quốc Hungary có chừng 170 biệt khu như vậy, giam cầm 437 ngàn người Do Thái, còn tại thủ đô Budapest thì cư dân Do Thái bị quản lý rải rác trong những “khu nhà dán sao”, và bị giới hiến binh Hung kiểm soát chặt chẽ hàng ngày.

Ngày 28/4, đoàn tàu đầu tiên chở 1.800 người Do Thái ở độ tuổi 16-60 khởi hành từ Hungary, và đến Trại tử thần Auschwitz ở gần cố đô Krakow [Ba Lan] vào ngày 2/5, khởi đầu cho chiến dịch thảm sát lớn nhất của đại nạn Holocaust. Người dân bị nhồi nhét và nhiều khi không thể cựa được vì quá chật chội trong những toa tàu chở súc vật, bị đóng kín, nhiều người chết dọc đường do thiếu dưỡng khí khi tàu đến khu trại tập trung và hủy diệt.

Ngày 15/5/1944, Holocaust ở mức hàng loạt trên quy mô khủng khiếp được tiến hành tại Hungary với cường độ chóng mặt: hàng ngày, có tới 4 đoàn tàu hỏa chật kín dân Do Thái chuyển bánh, chủ yếu là tới trại Auschwitz. Do phải nhận quá đông người Do Thái từ Hungary, hệ thống đường ray tàu hỏa đã được kéo dài từ ga Auschwitz đến thẳng “Cổng tử thần” của khu trại, nơi các “bác sĩ tử thần” chờ đón những nạn nhân không hề hay biết gì.

Chỉ với 20 sĩ quan Đức thuộc Đơn vị Trực chiến Đặc biệt [Sondereinsatz-kommando] và hơn 100 người giúp việc, nhưng Trung tá Quốc xã Adolf Eichmann - một trong những đao phủ chính yếu của đại nạn Holocaust ở Châu Âu - đã nhận được sự tiếp tay rất “hiệu quả”, vượt xa mức mong đợi từ bộ máy hành chính và hiến binh Hungary, mà ông ta phải khâm phục nhận định là “chính xác và tỉ mỉ khủng khiếp, không kém gì của người Đức”.

Bị thảm sát ngay trên quê hương

Trong ít tháng hầu như tất cả cư dân Do Thái ở các tỉnh và các miền quê ở Hungary đã bị đưa đến những trại tập trung và hủy diệt ngoài nước Hung. Phải tới đầu tháng 7/1944, khi thảm trạng Lò thiêu Auschwitz được công luận biết đến, sự phản đối của các nhân sĩ trong và ngoài nước - cùng thất bại của quân đội Đức và cuộc đổ bộ Normandy của phe Đồng minh - mới khiến Nhiếp chính vương Horthy Miklós buộc phải ngừng các cuộc đày ải.

Bằng quyết định đó, chừng 200 ngàn người Do Thái đang bị giam giữ trong biệt khu Budapest và chừng 100 ngàn người trong các đội lao động trừng giới tạm thời thoát chết, nhưng chỉ 2 tháng rưỡi của đại nạn Holocaust cũng đã khiến chừng 450 ngàn người từ Hungary thiệt mạng. Đến thăm triển lãm diệt chủng ở trại Auschwitz, có thể thấy rất nhiều hình ảnh của người Do Thái - Hungary, chiếm 1/3 tổng số nạn nhân của khu trại tử thần.

Đầu tháng 10/1944, Đức quốc xã “chống lưng” để nội các của Szálasi Ferenc, thủ lĩnh theo xu hướng phát-xít Hungary, lên nắm quyền. Chính quyền này cam kết theo Đức đến cùng trong Thế chiến, và do đó, tiếp tục đề nghị của Berlin để đày ải và sát hại người Do Thái. Ở Budapest, cư dân Do Thái còn sống sót bị đưa vào biệt khu ở trung tâm thành phố, gần 20 ngàn người bị giết hại, hoặc bị chết do bom đạn, đói khát, bệnh tật và tự sát...

Trong làn sóng khủng bố với mục tiêu “phi Do Thái hóa nước Hung”, cư dân Do Thái ở Budapest bị săn lùng và bị thảm sát ngay tại thủ đô, mà những điểm hành quyết điển hình là bờ sông Danube. Mùa đông 1944, có những lúc con sông Danube đóng băng đỏ ngầu máu những người Do Thái bị bắn thẳng xuống sông, nhưng đây cũng là thời kỳ diễn ra nỗ lực và lòng quả cảm của không ít cá nhân và tập thể đã gắng sức cứu sắc dân Do Thái.

Lịch sử ghi nhận trường hợp một đoàn hơn 150 người Do Thái đã bị bắt xếp hàng nhìn ra sông để chuẩn bị hành quyết, thì được các nhân viên ngoại giao Thụy Điển tới cứu. Sự can thiệp đầy hiệp nghĩa của Tòa Thánh Vatican và đại diện ngoại giao các quốc gia trung lập đã cứu vãn được tính mạng của nhiều người Do Thái, nhưng không ngăn cản được việc gần 80 ngàn người vẫn bị bắt đi bộ tới biên giới Hungary để trao cho Đức quốc xã.

Trong phiên tòa Nürnberg xét xử những tội ác chiến tranh và diệt chủng của phát-xít Đức, một sĩ quan Đức phụ trách việc đày ải người Do Thái ở Slovakia và Hy Lạp nhận xét rằng “có vẻ người Hungary thực sự là hậu duệ của Hung Nô, không có họ không làm sao chúng tôi làm được gì ra trò”. Vai trò và trách nhiệm của các nội các thân Đức của Vương quốc Hungary là không thể chối cãi, cho dù chính phủ cánh hữu hiện tại muốn lấp liếm.

Một trong những người sống sót khỏi Lò thiêu, văn hào Kertész Imre của Hungary, Giải Nobel Văn chương 2002, đã dành cả cuộc đời của mình để khắc họa nỗi đau Holocaust và “chuyển giao tinh thần Auschwitz” cho các thế hệ sau. Ôn lại “tấn thảm kịch lớn nhất của người Âu kể từ những cuộc thánh chiến” [lời của nhà văn], còn là để chiêm nghiệm, sao cho những bi kịch ấy không bao giờ lặp lại trong tương lai, dưới bất cứ hình thức nào...

Video liên quan

Chủ Đề