Sách luật so sánh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINHTRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XAChủ biênThân Thị Kim OanhGIÁO TRÌNHLUẬT SO SÁNHVinh - 20111TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINHTRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XAChủ biênThân Thị Kim OanhGIÁO TRÌNHLUẬT SO SÁNH[Giáo trình đào tạo từ xa]Vinh – 20112Phân công biên soạnChủ biên: Thân Thị Kim OanhTừ Chương 1 đến Chương 53CHƯƠNG 1NHẬP MÔN LUẬT SO SÁNH1. KHÁI NIỆM LUẬT SO SÁNH1.1. Định nghĩa luật so sánhCó nhiều định nghĩa khác nhau về luật so sánh. Tuy nhiên, các định nghĩa vềluật so sánh được các học giả sử dụng thường không tập trung giải quyết vấn đềbản chất mà chỉ tập trung vào đối tượng hoặc là chức năng của nó. Hai học giảngười Đức Zweigert và Kotz trong công trình “Giới thiệu về luật so sánh” mô tả“Luật so sánh là hoạt động trí tuệ mà pháp luật là đối tượng và so sánh là quátrình hoạt động”. Cùng với việc xác định đối tượng so sánh là hệ thống pháp luậtkhác nhau, hai tác giả đã khẳng định: “Luật so sánh là so sánh các hệ thống phápluật khác nhau trên thế giới”. Hay Peter de Cruz – tác giả cuốn sách: “Luật so sánhtrong thế giới thay đổi” định nghĩa luật so sánh “nghiên cứu có hệ thống cáctruyền thống pháp luật và các quy phạm pháp luật nào đó trên cơ sở so sánh”, địnhnghĩa này dựa trên lập luận rằng luật so sánh thường tập trung vào các truyền thốngpháp luật, công trình đòi hỏi phải là sự so sánh hoặc nhiều hệ thống pháp luật hoặctruyền thống pháp luật so sánh hoặc các chế định, các nghành luật của hai haynhiều hệ thống pháp luật hoặc so sánh các chế định, các ngành luật của hai haynhiều hệ thống pháp luật. Hay Michael Bogdan xác định “luật so sánh bao gồm:So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng vàkhác biệt;Sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định giải thíchnguồn gốc của chúng, đánh giá những giải pháp được sử dụng trong các hệ thốngpháp luật khác nhau, phân nhóm các hệ thống pháp luật thành các dòng họ phápluật hoặc nghiên cứu những vấn đề cốt lõi của các hệ thống pháp luật; vàXử lý các vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến cácnhiệm vụ trên, bao gồm những vấn đề mang tính phương pháp luận liên quan đếnviệc nghiên cứu pháp luật nước ngoài”.41.2. Đặc điểm của luật so sánhMặc dù những định nghĩa trên không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng cóthể giúp cho chúng ta đi đến một số nhận định cơ bản sau:- So sánh không phải là ngành luật hay lĩnh vực pháp luật thực định. Nóicách khác, luật so sánh không phải là hệ thống quy phạm pháp luật có đặc tínhchung để điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định củađời sống xã hội.- So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để tìm ra những điểm tươngđồng và khác biệt giữa chúng là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của luậtso sánh. Khác với việc so sánh các quy phạm pháp luật trong cùng một hệ thốngpháp luật, mà ở đây so sánh các quy phạm không cùng hệ thống pháp luật.- So sánh không đồng nhất với nghiên cứu pháp luât nước ngoài, Trong quátrình nghiên cứu pháp luật so sánh, thường so sánh hệ thống pháp luật nước ngoàivà hệ thống pháp luật nước mình.- Một trong những nhiệm vụ quan trọng và thú vị nhất của luật so sánh là cốgắng giải thích những điểm tương đồng và khác biệt.2. ĐỐI TƯỢNG CỦA LUẬT SO SÁNH2.1. Đối tượng của luật so sánhKhác với các lĩnh vực khoa học pháp lí khác như luật dân sự, luật hình sự,luật hành chính hay luật hiến pháp tập trung nghiên cứu các lĩnh vực pháp luật nhấtđịnh của hệ thống pháp luật, luật so sánh không nghiên cứu so sánh các ngành luật,các chế định hay các quy phạm pháp luật khác nhau trong cùng một hệ thống phápluật. Cho dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các luật gia vẫn thừa nhận “việc sosánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệtcủa chúng" là nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu luật so sánh. Từ đócó thể nhận định rằng các hệ thống pháp luật là đối tượng của luật so sánh.Vậy, hệ thống pháp luật được hiểu như thế nào?Thông thường khi nói đến hệ thống pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổnào đó, các luật gia có thể sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật với nghĩa là tổng5thể các quy phạm pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ đó. Theo nghĩa nàychúng ta có thể sử dụng các thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến hệ thống phápluật của Mỹ với hàm ý là quốc gia nhưng cũng có thể ám chỉ hệ thống pháp luậtcủa từng bang trong nhà nước liên bang Mỹ. Hoặc nói đến pháp luật Trung Quốchiện nay, chúng ta cũng có thể sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật Trung Quốcđể nói đến toàn bộ hệ thống pháp luật của Trung Quốc cũng có thể sử dụng thuậtngữ này để nói đến hệ thống pháp luật Hồng Kông với tư cách là bộ phận của hệthống pháp luật Trung Quốc.Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến pháp luật củacác quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, thuật ngữ này còn được sử dụng để nói đến phápluật của chúng có những quan điểm chung nhất định. René David, trong công trìnhgiới thiệu về các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới đã sử dụng thuật ngữ hệ thốngpháp luật khi nói đến nhóm hệ thống pháp luật của các nước thuộc lụa địa Châu Âu– hệ thống pháp luật La Mã. Tương tự với các hệ thống luật Anh Mỹ hay hệ thốngpháp luật xã hội chủ nghĩa [XHCN] cũng được hiểu như vậy.Một số học giả đã thay thuật ngữ hệ thống pháp luật bằng dòng họ pháp luậtđể chỉ nhóm các hệ thống pháp luật có những điểm chung. Vì vậy ta thường bắt gặpnhững thuật ngữ “dòng họ pháp luật La Mã” hay “dòng họ pháp luật Anh Mỹ”.Mặc dù không có định nghĩa rõ rang về dòng họ pháp luật nhưng nó có thể đượcxem là phương tiện mang tính chất khái niệm và phương pháp luân của cá luật sosánh, chứ không phải là các nhà xã hội học pháp luật hoặc lí luận về pháp luật.Dòng họ pháp luật xét về khía cạnh ngôn ngữ, phản ánh mối quan hệ mang tínhchất lịch sử của các hệ thống pháp luật khi chúng được xác định thuông cùng dònghọ. Mối quan hệ này đôi khi được ví như mối quan hệ dòng tộc của con người.Như vậy, đối tượng của luật so sánh không hoàn toàn bị giới hạn ở nội dungcủa các “hệ thống pháp luật” theo định nghĩa hẹp của từ này. Để xác định đượcđiểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật cần phải hiểu các quyđịnh của các hệ thống pháp luật đó. Và để hiểu được các quy định pháp luật đó cầnphải hiểu cách giải thích của các quy phạm pháp luật đó.62.2. Các cấp độ so sánh dành cho đối tượng của luật so sánhDo phạm vi và đối tượng của luật so sánh rộng như thế nên các nghiên cứuso sánh pháp luật có thể tiến hành so sánh một cách tổng thể, khái quát hệ thốngpháp luật này với hệ thống pháp luật này với hệ thống pháp luật khác hoặc so sánhthành tố của hệ thống pháp luật này với thành tố tương ứng trong hệ thống phápluật khác. Từ quan điển đó, các học giả thường phân biệt hai cấp độ so sánh vĩ môvà vi mô.- So sánh ở cấp độ vi mô là so sánh những vấn đề cốt lõi của hệ thống phápluật như các hính thức pháp luật, các phương pháp tư duy và các thủ tục được sửdụng trong các hệ thống pháp luật đó. Một cách cụ thể hơn, các nghiên cứu ở cấpđộ vĩ mô tập trung vào các phương pháp xử lí các tài liệu pháp luật, trình tự, thủ tụcđể giải quyết các tranh chấp cũng như vai trò của các tài liệu và các thủ tục nàytrong hệ thống pháp luật. Các nghiêncứu so sánh về kỹ thuật lập pháp, phươngpháp gải thích luật, các loại nguồn và giá trị pháp lí của chúng đối với hệ thốngnguồn của các hệ thống pháp luật.- So sánh ở cấp độ vi mô tập trung vào các vấn đề cụ thể trong các hệ thốngpháp luật . Xét về phạm vi, so sánh vi mô không bao quát toàn bộ hệ thống phápluật mà nó tập trung vào việc so sánh các quy phạm pháp luật và các chế định hợpđồng giữa các hệ thống pháp luật, so sánh các quy phạm điều chỉnh vấn đề hiệu lựccủa di chúc giữa hệ thống pháp luật khác nhau là so sánh ở cấp độ vi mô.Tuy nhiên so sánh cấp độ vĩ mô hay vi mô đều mang tính so sánh tương đối.Ranh giới phân chia giữa so sánh vĩ mô và so sánh vi mô không phải khi nào cũngrõ rang mà sự phân biệt giữa hai loại so sánh này rất linh hoạt. Thông thường sosánh ở cấp độ vi mô và vĩ mô thực hiện ngay trong cùng một thời điểm, trong cùngmột công trình nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là khi so sánh ở cấp độ vĩ mô, ngườinghiên cứu vẫn phải thực hiện các so sánh ở cấp độ vi mô và ngược lại.3. PHƯƠNG PHÁP CỦA LUẬT SO SÁNH3.1. Phương pháp so sánhỞ cấp độ so sánh vĩ mô, các học giả đã đề xuất nhiều yếu tố khác nhau đểxác định khả năng so sánh của các hệ thống pháp luật. Các nhân tố đó có thể là7kinh tế, chính trị, văn hóa, địa lí, ngôn ngữ, tôn giáo, hệ thống các giá trị. Một sốhọc giả lại cho rằng việc so sánh nên được tiến hánh giữa các hệ thống pháp luật cócùng những bước phát triển nhất định, có thể là kinh tế, xã hội hoặc pháp luật.Ở cấp độ vi mô, mặc dù có sự tranh luận rất sôi nổi trong giới luật học trênthế giới nhưng cho đến nay chức năng của các chế định, các quy phạm pháp luậtvẫn được đa số các học giả so sánh và thừa nhận là nhân tố thứ ba của việc so sánh.3.2. Các bước của so sánh pháp luậtTất cả những phân chia các bước của quá trình so sánh chỉ mang tính tươngđối. Đây là một cách phân chia cơ bản để thực hiện một công trình so sánh luật.Bước 1: Xác định vấn đề pháp luật cần so sánh và xây dựng giả thuyết đểnghiên cứu so sánh.Để thực hiện được các so sánh, trước hết, người nghiên cứu phải xác địnhvấn đề dự kiến nghiên cứu so sanh. Vấn đề dự kiến nghiên cứu so sánh có thể xuấtphát từ đòi hỏi của công việc và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu. Sau khi đã xác địnhđược vấn đề để tiến hành nghiên cứu so sánh, công việc tiếp theo trong bước này làxây dựng giả thuyết để nghiên cứu so sánh. Giả thuyết nghiên cứu so sánh luật có ýnghĩa hết sức lớn đối với việc đảm bảo tính chính xác cũng như giá trị của kết quảnghiên cứu. Một giả thuyết nghiên cứu so sánh luật không chính xác có thể dẫn đếnviệc đưa ra những kết luận sai lầm khi xác định những điểm tương đồng và khácbiệt cũng như khi đánh giá pháp lí trong các hệ thống pháp luật khác nhau.Giả thuyết nghiên cứu so sánh phải đảm bảo tính chức năng, đó là việc mộtgiả thuyết phải thực hiện được nội dung của vấn đề xã hội hoặc vấn đề pháp lí màcác quy phạm pháp luật được sử dụng để giải quyết. Tiếp theo đó là không nên đưavào trong giả thuyết nghiên cứu đó bất kỳ khái niệm pháp lí của hệ thống pháp luậtcủa nước nào. Bởi vì, ở các hệ thống pháp luật khác nhau thì các khái niệm khôngđồng nhất với nhau. Thậm chí có khái niệm sử dụng trong hệ thống pháp luật nàylại không sử dụng trong hệ thống pháp luật của nước kia.Bước hai: lựa chọn hệ thống pháp luật để so sánhTùy thuộc vào mục đích so sánh chúng ta sẽ lựa chọn được hệ thống phápluật so sánh cho phù hợp. Nếu so sánh với mục đích hoàn thiện hệ thống pháp luật8thường so sánh các hệ thống pháp luật có sự tương đồng về văn hóa, xã hội, vănhóa pháp luật. Tuy nhiên, nếu mục đích của việc so sánh nhằm làm hài hòa hóa vànhất là để nhất thể hóa pháp luật thì yếu tố chính trị lại đóng vai trò quan trọngtrong việc lựa chọn các hệ thống pháp luật để so sánh. Trong trường hợp nghiêncứu để thõa mãn nhu cầu thông tin và nâng cao hiểu biết về hệ thống pháp luậtkhác nhau thì việc lựa chọn hệ thống pháp luật nghiên cứu không phải là vấn đềphức tạp đối với người nghiên cứu vì họ có thể chọn bất kỳ một hệ thống pháp luậtnào để tiến hành nghiên cứu so sánh.Khả năng tiếp cận được nguồn thông tin của các hệ thống pháp luật cũngđóng vai trò quan trọng đối với việc lựa chọn hệ thống pháp luật cũng đóng vai tròquan trọng đối với việc lựa chọn hệ thống pháp luật để tiến hành nghiên cứu.Cấp độ so sánh là một trong những yếu tố quan trọng có liên quan đến việclựa chọn hệ thống pháp luật nào để nghiên cứu. Nếu là so sánh ở cấp độ vĩ mô, cácnhà nghiên cứu thường lựa chọn hệ thống pháp luật vẫn duy trì được tính chất củahệ thống pháp luật “gốc” của dòng họ pháp luật hay truyền thống pháp luật nào đó.Ví dụ nếu chúng ta nghiên cứu hệ thống pháp luật civil law thì chúng ta không thểbỏ qua hệ thống pháp luật Đức, hay nếu chúng ta nghiên cứu dòng họ common lawthì không thể bỏ qua hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Nếu so sánh ở cấp độ vi mô,việc lựa chọn hệ thống pháp luật để so sánh, phụ thuộc rất lớn vào vấn đề được lựachọn để nghiên cứu.Bước ba: Mô tả các hệ thống pháp luật được lựa chọn hoặc giải pháp phápluật của hệ thống này về vấn đề đã được lựa chọn để nghiên cứu so sánh.Việc mô tả các hệ thống pháp luật được lựa chọn để so sánh có ý nghĩa quantrọng trong việc xác định những quan điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thốngpháp luật. Để đảm bảo tính toàn diện của việc mô tả đối với hệ thống pháp luậtnước ngoài, người nghiên cứu cần phải tìm kiếm tất cả các quy định của các hệthống pháp luật được sử dụng để giải quyết vấn đề được xác định trong giả thuyếtnghiên cứu. Đây là một công việc hết sức khó khăn, hơn nữa việc mô tả đối tượngso sánh cũng không nên xây dựng theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào cả mà tùythuộc vào những đặc điểm riêng của từng hệ thống pháp luật. Việc mô tả về các hệthống pháp luật có thể tiến hành dưới hình thức trình bày các quy phạm, các khái9niệm và các chế định pháp luật của các hệ thống pháp luật, thậm chí có thể baogồm cả các vấn đề kinh tế xã hội gắn liền với các khái niệm, các quy phạm cũngnhư các mô tả về vấn đề cụ thể của hệ thống pháp luật nào đó liên quan đến nhữngvấn đề khác trong hệ thống pháp luật.Bước bốn: Xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thốngpháp luật.Trên cơ sở mô tả về các hệ thống pháp luật lựa chọn để so sánh đã được hoànthành trong giai đoạn trước, nhiệm vụ của người nghiên cứu trong giai đoạn này làdựa vào các bản mô tả đó để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa cáchệ thống pháp luật hoặc giải pháp của các hệ thống pháp luật đó. Tuy nhiên để đảmbảo việc so sánh và phân tích những điểm tương đồng được tiến hành một cách hệthống, việc xác định những điểm tương đồng và khác biệt cần phải dựa trên nhữngtiêu chí nhất định. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của bước này là xác định được hệthống các tiêu chí cho việc so sánh.Hệ thống tiêu chí so sánh cũng không phải là vấn đề dễ dàng vì mỗi hệ thốngpháp luật lại có những cách giải quyết vấn đề khác nhau, hệ thống khái niệm khácnhau. Sauk hi có được hệ thống tiêu chí so sánh, nhiệm vụ của người nghiên cứu sosánh tiếp theo là xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượngso sánh theo hệ thống các tiêu chí đã xác định.Bước năm: Giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng và khác biệtgiữa các hệ thống pháp luật, đồng thời phân tích đánh giá ưu điểm và hạn chế củacác giải pháp của các hệ thống pháp luật đã so sánh.Cơ sở để lí giải những điểm tương đồng và khác biệt là những yếu tố có ảnhhưởng đối với pháp luật. Trong đó có những yếu tố mang tính tất nhiên mà đángchú ý là những yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo, lịch sử và địa lí, nhânchủng cũng như các phương tiện điều chỉnh khác đối với hành vi của conngười…và có những yếu tố mang tính ngẫu nhiên tùy thuộc vào điều kiện và hoàncảnh của mỗi hệ thống pháp luật. Sau khi lí giải được nguồn gốc của những điểmtương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, người nghiên cứu cần phântích, đánh giá những ưu và hạn chế của các hệ thống pháp luật hoặc các giải phápcủa các hệ thống pháp luật hoặc các giải pháp của hệ thống pháp luật được so sánh.104. PHÂN LOẠI LUẬT SO SÁNH4.1. Căn cứ vào số lượng các hệ thống pháp luật được lựa chọn để so sánhBao gồm hai loại là so sánh song diện và so sánh đa diện. Trong đó, so sánhsong diện là so sánh hai hệ thống pháp luật với nhau. Nói cách khác, trong côngtrình nghiên cứu người so sánh chỉ lựa chọn hai hệ thống pháp luật để so sánh. Vídụ so sánh hệ thống pháp luật Trung Quốc và hệ thống pháp luật Việt Nam. Khácvới so sánh song diện là so sánh đa diện, là việc so sánh nhiều hệ thống pháp luậttrong công trình nghiên cứu. Chẳng hạn người so sánh có thể chọ so sánh hệ thốngpháp luật Anh, Đức và Trung Quốc để so sánh.4.2. Căn cứ vào mục đích của việc so sánhDựa vào mục đích của so sánh chúng ta có thể phân thành so sánh học thuậtvà so sánh lập pháp. So sánh học thuật được thực hiện để hỗ trợ các nhà sử học, xãhội học, các luật gia phân tích tìm hiểu nguồn gốc và sự phát triển của các kháiniệm pháp lí chung của tất cả các hệ thống pháp luật. Giá trị to lớn của so sánh họcthuật là nâng cao hiểu biết về pháp luật của các luật gia và các nhà nghiên cứu phápluật. Trong khi đó, so sánh lập pháp lại nhấn mạnh vào mục đích thực tiễn của luậtso sánh là tập hợp và cung cấp các thông tin liên quan đến pháp luật nước ngoài vàsử dụng những kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài và sử dụng kinh nghiệm củapháp luật nước ngoài cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia.Nói cách khác, so sánh lập pháp là để tìm những kinh nghiệm, mô hình pháp luậtnước ngoài phục vụ cho quá trình lập pháp, có nghĩa là sử pháp luật nước ngoàitrong quá trình soạn thảo các đạo luật mới của pháp luật quốc gia.5. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT SO SÁNH5.1. Sự hình thành và phát triển của luật so sánh trên thế giớiCó thể phân chia sự hình thành và phát triển của luật so sánh trên thế giớithành hai giai đoạn cơ bản là trước thế kỷ XIX và từ thế kỷ XIX đến nay.- Trước thế kỷ XIXNgay từ thời kỳ cổ đại, nhiều nhà nước cổ đại đã viện dẫn pháp luật nướcngoài để xây dựng hệ thống pháp luật nước mình. Điển hình là nhà nước Hi Lạp vànhà nước La Mã. Trong nhà nước Hi Lạp cổ đại, một số thành phố khi xây dựng11luật lệ của mình đã chấp nhận toàn bộ hoặc một phận luật lệ của các thành bangkhác. Việc chấp nhận pháp luật của các vùng khác hoặc các thành bang khác ở thờikỳ cổ đại này có lẽ xuất phát từ lí do là luật lệ của các vùng đó được coi là tốt hơn,tiến bộ hơn. Do đó, đây là cách thích hợp để có luật lệ tốt hiện nay.Đến thời kỳ Trung cổ, sau khi đế chế Tây La Mã bị sụp đổ, ở các khu vựccủa Tây Âu tồn tại hai loại luật song song cùng được áp dụng là luật La Mã và LuậtGiécmanh. Tuy nhiên, sự tồn tại của hai loại luật lệnày cùng được áp dụng cũngkhông làm xuất hiện bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Đến thời kỳ Phục Hưng, đãxuất hiện những nghiên cứu khoa học dựa trên cơ sở so sánh. Đến thời kỳ Trungcổ, ở Châu Âu lục địa hầu như không có bất kì một sự nghiên cứu so sánh nào ngaycả khi các trường đại học nghiên cứu giảng dạy luật La Mã.Từ thế kỉ XVI, ở các quốc gia châu Âu lục địa tồn tại nhiều loại luật lệ khácnhau được áp dụng cho các vùng lãnh thổ khác nhau, vì vậy đã xuất hiện một sốcông trình so sánh các luật lệ của người Giécmanh đã được thực hiện ở một sốnước như Tây Ban Nha, Đức.Sự phát triển mạnh mẽ của các hệ thống pháp luật của các quốc gia trong thếkỷ XVII và thế kỷ XVIII đã làm cho các luật gia ở các nước châu Âu lục địa tậptrung nghiên cứu hệ thống pháp luật của nước mình, vì vậy, luật so sánh hầu nhưkhông được phát triển. Tuy nhiên một số học giả cũng đã đề xuất rằng các học giảcần phải thoát khỏi khuôn khổ của hệ thống pháp luật quốc gia để đánh giá đượcgiá trị đúng của hệ thống pháp luật.Từ thế kỷ XIX đến nayTừ thế kỷ XIX đến nay, luật so sánh được phát triển mạnh mẽ xuất phát từhai cơ sở là luật so sánh lập pháp và luật so sánh học thuật. Luật so sánh lập pháp làquá trình theo dó pháp luật của nước ngoài viện dẫn để soạn thảo các văn bản phápluật quốc gia; còn luật so sánh học thuật là việc so sánh các hệ thống pháp luật khácnhau đơn giản là nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật.Trong nửa đầu thế kỷ XIX, luật gia của các nước chỉ tập trung vào nghiêncứu hệ thống pháp luật của nước mình vì thế luật so sánh không có điều kiện đểphát triển. Bắt đầu từ cuối những năm 20 của thế kỷ này đã có những tín hiệu cho12sự hình thành và phát triển luật so sánh học thuật. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, sựphát triển của luật so sánh được đánh dấu bằng sự phát triển mạnh mẽ của các thiếtchế của nó như các hiệp hội, các tạp chí và trưởng các chuyên ngành so sánh.Trong nửa đầu thế kỷ XX, nhiều thiết chế chuyên về luật so sánh đã được thành lậpvà các thiết chế này đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của luật so sánh.Cùng với sự phát triển của các thiết chế chuyên về luật so sánh, luật so sánh tronggiai đoạn hiện nay cũng được phát triển thành các môn học ở cấp độ khác nhautrong các khoa học luật của trường đại học ở các nước khác nhau. Cùng với sự rađời của các thiết chế, đưa môn luật so sánh vào giảng dạy thì thời kỳ này có nhiềucông trình về luật so sánh được xuất bản góp phần quan trọng vào sự phát triển củaluật so sánh trên thế giới.Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, với sự ra đời của hệ thống các nướcXHCN bao gồm các nước Đông Âu và một số nước đổi nhất định và ít nhiều bị ảnhhưởng bởi sự phân hóa thế giớ và quan điểm chính trị.Từ sau những năm 50, với sự xuất hiện của các trung tâm và các viện nghiêncứu về luật so sánh ở Mỹ cũng như ở châu Âu. Sự xuất hiện các tạp chí chuyênnghành về luật so sánh và việc thành lập các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiêncứu luật so sánh và sự quan tâm của giới luật học đối với luật so sánh đã làm xuấthiện số lượng khổng lồ các công trình nghiên cứu so sánh ở các cấp độ và phạm vikhác nhau.5.2. Sự hình thành và phát triển của luật so sánh ở Việt NamThời kỳ trước năm 1986, luật so sánh ở Việt Nam chủ yếu là so sánh lậppháp. Nói cách khác, các nhà làm luật của Việt Nam ở các thời kỳ khác nhau tronglịch sử đều viện dẫn và sử dụng pháp luật nước ngoài để xây dựng hệ thống phápluật của mình.Trong thời kỳ phong kiến, các nhà làm luật của các triều đại phong kiến ViệtNam đã tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luậtcủa mình. Mặc dù không có nền tảng lý thuyết về so sánh như bây giờ nhưng cácnhà làm luật Việt Nam ở các thời kỳ khác nhau đã chắt lọc những điểm hợp lí trongpháp luật của nước ngoài mà chủ yếu là luật Trung Quốc để xây dựng hệ thốngpháp luật của nước mình phù hợp với điều kiện và hoàng cảnh kinh tế xã hội của13Việt Nam. Sự tiếp thu những kinh nghiệm của pháp luật của các triều đại phongkiến Việt Nam không phải chỉ là sự tiếp thu về tư tưởng mà còn tiếp thu về hìnhthức cũng như nội dung của các văn bản pháp luật nước ngoài.Sau cách mạng tháng Tám, với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủcộng hòa, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước xây dựng. Có thể nói hầu hếtcác đạo luật lớn đặc biệt là Hiến pháp và các luật về tổ chức nhà nước của ViệtNam đã được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật nước ngoài.Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động lập pháp của Việt Nam đãcó sự phát triển đáng kể. Hiến pháp năm 1980 và các văn bản pháp luật về tổ chứcbộ máy nhà nước đã được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập phápcủa Liên Xô và các nước XHCN khác. Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật củaViệt Nam trong giai đoạn này nhiều điểm tương đồng với pháp luật Liên Xô.Từ năm 1986 đến nay, những yêu cầu của quá trình hội nhập và giao lưuquốc tế đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có thể chủ động hộinhập với nền kinh tế thế giới. Nhờ đó luật so sánh đã được phát triển mạnh hơn sovới giai đoạn trước trên cả hai phương diênh là so sánh lập pháp và so sánh luật.Ở phương diện so sánh lập pháp, các nhà làm luật trong quá trình soạn thảocác văn bản pháp luật đã tìm hiểu và tham khảo kinh nghiệm pháp luật của cácnước khác nhau, đặc biệt là những nước đã phát triển nền kinh tế thị trường. Việcban hành các văn bản pháp luật, nhất là văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệgắn với nền kinh tế thị trường được chú trọng hơn.Ở phương diện luật so sánh học thuật, các nhà luật học Việt Nam trong giaiđoạn này đã bắt đầu quan tâm đến các nghiên cứu so sánh học thuật. Tuy nhiên, cáccông trình nghiên cứu của các nhà luật học Việt Nam chủ yếu là giới thiệu cácdòng họ pháp luật trên thế giới hoặc giới thiệu những vấn đề cụ thể của các hệthống pháp luật nước ngoài. Các công trình nghiên cứu luật so sánh trên cơ sởnhững nguyên tắc và lí thuyết về luật so sánh chưa nhiều. Đặc biệt những nghiêncứu lí thuyết về luật so sánh còn rất nhiều khiêm tốn. Mặc dù vậy sự phát triểnngày càng mạnh mẽ các công trình so sánh và giới thiệu pháp luật nước ngoài đãphần nào phản ánh được sự phát triển của luật so sánh với Việt Nam trong giaiđoạn này.146. Ý NGHĨA CỦA LUẬT SO SÁNH6.1. Luật so sánh giúp cho việc nâng cao hiểu biết của các nhà nghiên cứuĐây là nơi cung cấp cho các nhà nghiên cứu tri thức vê các dòng họ phápluật trên thế giới, luật so sánh còn cung cấp những tri thức về hệ thống pháp luậtcác nước trên thế giới. Cung cấp thông tin về các hệ thống pháp luật khác nhau làsự đóng góp đáng kể nhất của luật so sánh đối với thực tiễn pháp luật và trên thựctế, việc tạo ra các thông tin đó là điều mà đa số các nhà so sánh thực hiện trongphần lớn thời gian.Luật so sánh không chỉ cung cấp cho các luật gia và các nhà nghiên cứunhững tri thức về các dòng họ pháp luật trên thế giới và tri thức về hệ thống phápluật nước ngoài mà còn giúp cho các luật gia và các nhà nghiên cứu có thêm đượctri thức về hệ thống pháp luật nước mình.Ngoài những tri thức và hiểu biết về pháp luật mà các luật gia còn có được từviệc nghiên cứu luật so sánh, luật so sánh còn cung cấp những tri thức của nhiềulĩnh vực khoa học khác. Trong quá trình tiến hành các so sánh luật, để hiểu đượcmột cách đúng đắn các quy định của pháp luật nước ngoài, các nhà nghiên cứu cònphải tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đối với pháp luật và xã hội của nước mà hệthống pháp luật đã được lựa chọn để so sánh.6.2. Luật so sánh hỗ trợ việc cải cách pháp luật quốc giaMột trong những ứng dụng rất hữu ích của luật so sánh là hỗ trợ việc cảicách pháp luật của quốc gia. Những tri thức có được từ kết quả của việc nghiên cứuso sánh sẽ hỗ trợ rất lớn cho các nhà làm luật trong việc xây dựng hoặc cải tổ hệthống pháp luật quốc gia. Thậm chí, việc nghiên cứu luật so sánh không phải chỉgiúp cho nhà làm luật lựa chọn được giải pháp nào hoặc mô hình nào để tiếp nhânmà còn giúp họ tránh được những thử nghiệm luật pháp không thành công.6.3. Luật so sánh hỗ trợ cho việc làm hài hòa pháp luật và nhất thể hóa phápluậtHài hòa hóa và nhất thể hóa pháp luật là hai khái niệm khác nhau dược sửdụng khá phổ biến trong khoa học pháp lý. Hài hòa hóa pháp luật và nhất thể hóapháp luật là những hình thức khác nhu để loại bỏ sự khác biệt trong các lĩnh vực15pháp luật cụ thể của các hệ thống pháp luật khác nhau. Trong đó hài hòa hóa phápluật là quá trình nhằm làm giảm đi những khác biệt trong các lĩnh vực pháp luật cụthể giữa các hệ thống pháp luật bằng cách xây dựng các luật mẫu và thực hiện cácbiện pháp để khuyến khích các quốc gia tiếp nhận và áp dụng. Nhất thể hóa phápluật được sử dụng để nói đến quá trình theo đó các quy phạm pháp luật mâu thuẫncủa các hệ thống pháp luật khác nhau thay thế bởi các quy phạm pháp luật giốngnhau. Hay nói cách khác, hài hòa hóa là cố gắng làm giảm đi những khác biệt trongcùng những lĩnh vực pháp luật thì nhất thể hóa pháp luật lại đi xa hơn là tạo ra cácquy phạm pháp luật để áp dụng trong những lĩnh vực nhất định của các nước chấpnhận việc nhất thể hóa.Luật so sánh hỗ trợ cho quá trình hài hòa hóa và nhất nhể hóa pháp luật đểvượt qua những khó khăn về kỹ thuật. Những hỗ trợ của luật so sánh về mặt kỹthuật thực sự đóng vai trò trong các giai đoạn khác nhau của quá trình hài hòa hóavà nhất thể hóa. Một trong những nội dung quan trọng trong giai đoạn này là tìm ranhững điểm chung của các hệ thống pháp luật làm cơ sở cho việc hài hòa hóa vàthống nhất hóa pháp luật. Vì vậy, để có được đề xuất thích hợp cho việc nhất thểhóa, việc nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật và các quy phạm liên quan đếnlĩnh vực được nhất thể hóa và hài hòa hóa. Bên cạnh đó còn hỗ trợ việc xây dựngđược giải pháp pháp lí tốt hơn và dễ dàng áp dụng hơn đối với các giải pháp pháplý đang được sử dụng ở tất cả các quốc gia.Mặt khác, luật so sánh cung cấp cho các luật gia những tri thức và kỹ năngquan trọng để tham gia vào quá trình đàm phán để đi đến nhất thể hóa pháp luậthoặc hài hòa hóa pháp luật. Việc xây dựng các mâu thuẫn được áp dụng chung đòihỏi quá trình đàm phán giữa đại diện các quốc gia đạt được sự đồng thuận về cácquy tắc pháp luật chung. Những tri thức về các hệ thống pháp luạt và hơn thế là cáckỹ năng phân tích, đánh gia các hệ thống pháp luật khác nhau.6.4. Luật so sánh hỗ trợ việc thực hiện và áp dụng pháp luậtLuật so sánh có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các vụ việccó liên quan đến yếu tố nước ngoài và pháp luật nước ngoài. Các thẩm phán, khigiải quyết vụ việc cụ thể nào đó liên quan đến việc phải áp dụng pháp luật nướcngoài, các luật sư tranh tụng tại tòa án đối với các việc liên quan đến pháp luật16nước ngoài đương nhiên cần hiểu được các quy định của pháp luật nước ngoài. Hơnnữa, khi tòa án phải áp dụng pháp luật nước ngoài, các tòa án đều phải đảm bảorằng các quy định pháp luật nước ngoài không trái với nguyên tắc cơ bản pháp luậttrong nước.Câu hỏi:1. Phân tích đối tượng nghiên cứu Luật so sánh2. Trình bày cách phân loại luật so sánh3. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển của Luật so sánh4. Phân tích tầm quan trọng của Luật so sánh đối với khoa học pháp lý ngày nay?5. Phân tích vai trò của Luật so sánh trong công cuộc hoàn thiện pháp luật ViệtNam?17CHƯƠNG 2DÒNG HỌ PHÁP LUẬT CHÂU ÂU LỤC ĐỊA[DÒNG HỌ CIVIL LAW]1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÒNG HỌ CIVIL LAW1.1. Thuật ngữ “Civil law”Thuật ngữ này trong lĩnh vực pháp luật có hai nghĩa phổ biến:Thứ nhất, đó là tên gọi của hệ thống pháp luật châu Âu [hay còn gọi là hệthống pháp luật La Mã – Đức], là dòng họ pháp luật lớn nhất trên thế giớ, tồn tại ởcác nước lục địa châu Âu như: Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,…phần lớncác nước châu Phi, hầu hết các nước châu Mỹ Latinh, các nước phương đông kể cảNhật Bản.Thứ hai, có nghĩa là luật dân sự - nghành luật điều chỉnh các quan hệ tài sảnvà nhân than giữa cá nhân thuộc lĩnh vực luật tư – điều chỉnh các quan hệ giữa tưnhân với tư nhân.Trong lĩnh vực luật so sánh Civil law được hiểu theo nghĩa thứ nhất là hệthống pháp luật lớn nhất trên thế giới mà nền tảng của nó là luật La Mã cổ đại.1.2. Đặc điểm của dòng họ civil lawThứ nhất, chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật La MãCác bộ luật lớn của châu Âu lục địa như Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804,Bộ luật dân sự Đức 1896 đều được hình thành trên cơ sở kết hợp tập quán địaphương và luật La Mã. Đặc biệt Đức, các đế chế Đức tồn tại thời kỳ giữa năm 962và năm 1806 tự cho mình là sự kế thừa của đế chế La Mã. Luật La Mã được nghiêncứu tại các trường đại học của Đức, Pháp và áp dụng trực tiếp nếu luật pháp thànhvăn và tập quán pháp luật của họ chưa có quy định đối với quan hệ xã hội cần thiếtphải điều chỉnh.Thứ hai, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law được phân chiathành công pháp và tư pháp.Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt dòng họ Civil law với dòng họcommon law. Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ này thường được chia thành18công pháp và tư pháp. Công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các quanhệ giữa cơ quan nhà nước với nhau hoặc cơ quan nhà nước với tư nhân. Vông phápbao gồm các ngành luật như Hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật ngânhàng, luật tài chính công. Tư pháp bao gồm các ngành luật điều chỉnh các quan hệgiữa tư nhân với tư nhân. Tư pháp bao gồm các nghành luật như luật dân sự, luậthôn nhân và gia đình, luật thương mại, luật lao động.Thứ ba, các hệ thống pháp luật thuộc dòng hò civil law coi trọng lí luận phápluật.Ngay từ thế kỷ XII, XIII, khi các trường đại học của các quốc gia ở lục địachâu Âu ra đời, quan điểm của các giáo sư đại học lúc này đã là: pháp luật là côngcụ, là mô hình tổ chức xã hội. Quan điểm này đuwọc duy trì ở những thế kỷ tiếptheo.Thứ tư, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law có trình độ hệ thốnghóa, pháp điển hóa cao.Ngoài các bộ luật thông thường như bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự,bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật lai động, bộ luật thương mại các quốcgia lục địa châu Âu đã xây dựng hệ thống tòa án hành chính, bộ luật tố tụng hànhchính, bộ luật hàng hải, luật hàng không, luật bầu cử….Nhờ xây dựng được nhiềubộ luật nên việc nghiên cứu và thực hiện áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng hơn.Các quy phạm trong các bộ luật thường rất cụ thể với các chế tài rõ rang vì vậy cóthể áp dụng trực tiếp vào các quan hệ xã hội mà không cần thông qua văn bản phápluật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành.Thứ năm, dòng họ civil law không coi tiền lệ pháp là hình thức pháp luậtthông dụng và phổ biến như pháp luật thành văn.Khác với dòng họ common law, dòng họ civil law do chịu ảnh hưởng sâu sắccủa học thuyết phân chia quyền lực nên không thừa nhận vai trò lập pháp của cáccơ quan xét xử. Các luật gia lục địa châu Âu hầu như có quan điểm thống nhất rằnglập pháp là hoạt động của nghị viện, tòa án là cơ quan áp dụng luật để xét xử chứkhông phải bằng hoạt động xét xử tạo ra luật. Án lệ là hình thức pháp luật không19được khuyến khích phát triển và chỉ áp dụng một cách hạn chế như là hình thứckhắc phục khiếm khuyết của pháp luật thành văn.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ CIVIL LAW2.1. Giai đoạn pháp luật tập quánĐây là thời kỳ pháp luật như tên gọi của nó hình thành từ tập quán địaphương, vì vậy còn mang tính biệt lập, phân tán, thiếu thống nhất. Tồn tại các luậttập quán của Pháp, Đức, của các dân tộc Slavian, luật La Mã, phần lớn các bộ tộc ởTây Âu đã bị người La Mã đô hộ suốt 4 thế kỷ nên Luật la Mã cổ đại đã ảnh hưởngrất lớn ở đây.Nhìn chung giai đoạn này luật pháp còn giản đơn, lẫn lộn gữa quy phạm đạođức và quy phạm tôn giáo, pháp luật. Đặc biết trong thời kỳ mà người phương Tâygọi là “The Dark Age” thời kỳ đen tối từ thế kỷ V đến thế kỷ X. Thời kỳ này mặcdù pháp luật đã tồn tại nhưng chưa phải thực sự là công cụ chủ yếu để đảm bảocông lý trong xã hội. Với những quan điểm về chứng cứ hoặc duy tâm hoặc thiếusự khách quan thì phương pháp giải quyết tranh chấp thời kỳ này có thể là đấusung, đấu gươm, đấu vật, cá cược, lợi thề trước chúa, chịu thử thách với lửa,nước…Các tranh chấp giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm xã hội được giải quyếthoặc bằng luật của sức mạnh cơ bắp hoặc bằng sức mạnh quyền uy của các tộctrưởng.Luật pháp thời kỳ này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng tôn giáo,nhiều quốc gia lấy luật lệ nhà thờ làm luật lệ nhà nước.2.2. Giai đoạn phát triển pháp luật thành văn từ thế kỷ XIII đến cuối thế kỷXVIIICuối thế kỷ XII, các thành phố châu Âu bắt đầu phát triển và cùng với sựphát triển đó là sự gia tăng các hoạt động thương mại, giao lưu giữa các dân tộcchâu Âu lục địa. Hoạt động buôn bán thương mại và sự phát triển dân cư tạo ra nhucầu cần phải phân biệt giữa tôn giáo, đáo và pháp luật. Đáng chú ý là giai đoạn vănhóa Phục Hưng bắt đầu từ thế kỷ XIII – XIV xuất phát từ Italia sau đó lan dần sangcác nước lục đia châu Âu. Các nhà tư tưởng lúc này muốn những giá trị đích thựccủa luật La Mã.20Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII, trong quá trình khoảng 5 thế kỷ nghiêncứu, giảng dạy luật La Mã nhằm đào tạo các chuyên gia pháp luật, các trường đạihọc châu Âu đã có những đóng góp to lớn cho việc xây dựng một hệ thống phápluật chung cho lục địa châu Âu nên các nhà luật học châu Âu gọi đó là “pháp luậtchung của các trường đại học”. Trong giai đoạn này cũng xuất hiện nhiều trườngphái luật học khác nhau.Giai đoạn từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII là giai đoạn hình thành hệ thốngpháp luật thống nhất của châu Âu. Vào đầu thế kỷ XIII, khoonh những châu Âu màcác nước thuộc lục địa châu Âu cũng không có một hệ thống pháp luật thống nhất.Nguyên nhân của tình trạng này là mỗi quốc gia đếu áp dụng luật tập quán cho cácvùng miền khác nhau.Tóm lại, khoảng từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII trên cơ sở ảnh hưởng sâurộng của Corpus Juris Civilis, hệ thống pháp luật chung của lục địa địa châu Âu đãra đời và được gọi là Jus Commune. Đây là hệ thống pháp luật thống nhất của châuÂu nhưng được thể hiện đa dạng ở các nước châu Âu, đó là hệ thống pháp luậtmềm dẻo, hoàn toàn khác với common law của nước Anh.2.3. Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển mở rộng ra ngoài lục địaChâu ÂuĐây là giai đoạn được đánh dấu bằng những văn bản pháp luật quan trọng, làcuộc cách mạng lớn trong sự phát triển tư tưởng pháp luật của nhân loại. Trước hếtphải kể đến bản tuyên ngôn nhân quyền đầu năm 1789 của Pháp. Những quy địnhcơ bản của Bản tuyên ngôn đã trở nên nổi tiếng này đã trở thành những nguyên tắccơ bản của các bản hiến pháp của các quốc gia lục địa châu Âu và nhiều nước kháctrên thế giới. Đây là nền móng chow một ngành luật mới ra đời đó là luật Hiếnpháp. Những quy định trong bản tuyên ngôn nổi tiếng này đã trở thành nhữngnguyên tắc cơ bản trong quá trình đấu tranh vì chế độ dân chủ trong lịch sử lập hiếncác nước lục địa châu Âu.Vào đầu thế kỷ XIX, các bộ luật quan trọng của các nước đã ra đời như Bộluật dân sự Naponeon 1804, Bộ luật tố tụng dân sự năm 1806, Bộ luật thương mại1806,..Với các bộ luật nổi tiếng trên đây, dòng họ civil law đã đạt được nhữngthành tựu to lớn, đánh dấu giai đoạn phát triển rực rõ của khoa học pháp lý.21Hệ thống pháp luật của các quốc gia thuộc dòng họ pháp luật này có trình độhệ thống hóa, pháp điển hóa cao nhất trong các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới.Các quốc gia thuộc dòng họ civil law đều xây dựng được khá nhiều bộ luật trên cáclĩnh vực khác nhau.2.4. Sự phát triển pháp luật thuộc dòng họ civil law ra ngoài Châu ÂuDo nhiều quốc gia Tây Âu như Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,..cónhiều thuộc địa ở các châu lục khác nên dòng họ pháp luật civil law đã có điều kiệnthuận lợi để phát triển sang các châu lục khác.Ở châu Mỹ, những thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lanlà những vùng lãnh thổ đã tiếp nhận các chế định pháp luật thuộc dòng họ civil lawvà xây dựng các bộ luật theo các hình mẫu của châu Âu. Tuy nhiên, cùng với sựphát triển của châu Mỹ, hệ thống pháp luật án lệ đã thống soái ở đây.Ở châu Á, dòng họ civil law cũng được tiếp nhận ở nhiều khu vực lãnh thổkhác nhau. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, từ năm 1839 các bộ luật châu Âu đã được coi là mô hìnhđể họ cải cách hệ thống pháp luật. Năm 1926, Thổ Nhĩ Kỳ tiếp nhận Bộ luật nghĩavụ của Thụy Sĩ và gia nhập dòng họ civil law mặc dù đây là quốc gia hồi giáo vàtrước đó không lâu pháp luật hồi giáo vẫn còn thống trị. Các nước khác như AiCập, Irac, Isaren… cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật lục địa châu Âu vàtrong quá trình phát triển pháp luật, các chế định pháp luật lục địa châu Âu đượccấy ghép xen kẽ via pháp luật Hồi giáo thành hệ thống pháp luật pha trộn. Cácnước viễn đông như Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước Đông Nam Á như ViệtNam, Lào, Campuchia cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc các chế định pháp luật củadòng họ civil law trong lĩnh vực công pháp cũng như tư pháp. Hầu như tất cả cácnước nói trên đều chịu ảnh hưởng các chế định pháp luật cụ thể như hợp đồng, thừakế, sở hữu, pháp nhân…trong luật tư và các chế định nghị viện, tổng thống, chínhphủ, hệ thống tòa án, chính quyền địa phương trong lĩnh vực công. Các hiến pháp,các bộ luật dân sự, hình sự, thương mại, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự của cácnước châu Âu cũng có ảnh hưởng lớn đế quá trình xây dựng và hoàn thiện phápluật các nước châu Á cũng như châu lục khác.223. CẤU TRÚC CỦA CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ CIVIL LAW3.1. Sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư phápCác hệ thống pháp luật dòng họ civil law phân chia thành hai loại công phápvà tư pháp. Công pháp là hệ thống các ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa cáccơ quan công quyền via nhau và giữa các cơ quan công quyền với tư nhân. Một sốngành luật được coi là hỗn hợp giữa luật công và luật tư như tố tụng hình sự, tốtụng dân sự, tư pháp quốc tế.Theo Rene David, ở các nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa châu Âu,khoa học pháp lý liên kết các quy phạm pháp luật vào các nhóm lớn là công phápvà tư pháp. Sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp dựa trên tư tưởng đãhình thành từ lâu trong các luật gia lục địa châu Âu là những mối quan hệ giữangười cai trị và người bị cai trị đòi hỏi những chế định hoàn toàn khác với mốiquan hệ giữa cá nhân và cá nhân, lợi ích chung và lợi ích riêng không thể cùng đotrên một bàn cân. Các nhà luật học theo trường phái luật tự nhiên, không phụ thuộcvào nhà nươc và cao hơn nhà nước.Công pháp có các nguyên tắc cơ bản sau:- Tất cả các quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao củanhà nước thuộc về nhân dân;- Đảm bảo sự phân chia quyền lực và kiềm chế đối trọng giữa các nhánhquyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.- Đảm bảo cho các cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan lập pháp và hànhpháp;- Đảm bảo các quyền công dân và quyền con người được tôn trọng, thựchiện;- Xây dựng nhà nước pháp quyềnTư pháp có những nguyên tắc cơ bản sau đây- Nguyên tắc tự do thỏa thuận ý chí của các bên tham gia quan hệ pháp luật;- Nguyên tắc tự do thỏa thuận ý chí của các bên tham gia quan hệ pháp luật;23- Nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể trong việc thể hiện ý chí và thực hiệnquyền và nghĩa vụ pháp lý- Nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể trong việc thể hiện ý chí và thự hiệnquyền và nghĩa vụ pháp lý;- Nguyên tắc thiện chí, trung thực trong việc xác lập và thực hiện quyền vànghĩa vụ pháp lý;- Nguyên tắc tôn trọng đạo đức truyền thống tốt đẹp của cộng đồng;- Nguyên tắc không xâm phạm lợi ích hợp pháp cảu các chủ thể pháp luậtkhác;Công pháp có đặc điểm cơ bản sau đây- Mục đích công pháp là bảo vệ lợi ích công- Quy phạm công pháp mang tính tổng quát cao;- Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của công pháp là phương pháp mệnhlệnhCông pháp thông thường thể hiện tính chất bất bình đẳng giữa các chủ thểpháp luật, trong đó các cơ quan nhà nước thường ra các quyết định mang tính mệnhlệnh và bên chủ thể khác phải thi hành.Tư pháp có đặc điểm cơ bản sau- Các quy định của tư pháp hướng tới việc bảo vệ lợi ích tư nhân.- Các quy phạm của tư pháp thường rất cụ thể, chi tiết;- Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của tư pháp là tự do thỏa thuận ý chí củacác bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.- Các quan hệ pháp luật tư pháp thể hiện sự bình đẳng của các chủ thể thamgia quan hệ pháp luật.3.2. Các chế định pháp luật đặc thù- Chế định luật nghĩa vụ24Chế định luật nghĩa vụ là chế định đặc thù của các hệ thống pháp luật thuộcdòng họ civil law vì trong các hệ thống pháp luật khác không có khái niệm này.Tuy nhiên xét về nội dung chế định luật nghĩa vụ tương đương với chế định hợpđồng và trách nhiệm pháp lí ngoài hợp đồng trong hệ thống pháp luật XHCN.Theo điều 1101 Bộ luật dân sự Naponeon, hợp đồng là sự thỏa thuận giữacác bên, theo đó đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khácvề việc chuyển giao vật, làm hoặc không làm cho việc nào đó.Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn điều kiện chủ yếu sau đây:- Các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện;- Các bên giao kết có năng lực giao kết hợp đồng;- Đối tượng của hợp đồng phải xác định;- Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp.Không chỉ riêng Bộ luật dân sự Naponeon mà các bộ luật dân sụ khác củacác nước châu Âu lục địa đều quy định rõ những biện pháp để đảm thực hiện hợpđồng như cầm cố, đặt cọc, tiền phạt, bảo lãnh,…Người có nghĩa vụ sẽ phải bồithường thiệt hại xảy ra do không thực hiện nghĩa vụ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ,trừ trường hợp chứng minh được rằng việc không thực hiện nghĩa vụ đó nguyênnhân khách quan và hoàn toàn ngay tình.Khác với dòng họ pháp luật XHCN, nơi mà hợp đồng chỉ được coi là chếđịnh của luật dân sự và thương mại, trong dòng họ civil law còn có khái niệm hợpđồng hành chính. Hợp đồng hành chính có một số đặc điểm khác với hợp đồng dânsự và thương mại. Hợp đồng dân sự, thương mại hướng đến lợi ích tư còn hợp đồnghành chính hướng tới lợi ích công. Trong hợp đồng dân sự và thương mại các chủthể tư nhân còn trong hợp đồng hành chính thì một trong các bên tham gia hợpđồng phải là pháp nhân công quyền. Trong hợp đồng dân sự và thương mại các chủthể hoàn toàn bình đẳng với nhau, còn trong hợp đồng hành chính các bên khôngnhất thiết phải bình đẳng. Hợp đồng dân sự và thương mại thuộc lĩnh vực điềuchỉnh của luật tư còn hợp đồng hành chính thuộc lĩnh vực điều chỉnh của luật công.- Chế định pháp nhân25

Video liên quan

Chủ Đề