Tại sao Huấn Cao lại chống lại triều đình

Câu 1: “Chữ người tử tù” là truyện ngắn của nhà văn nào?

  • Nam Cao
  • Nguyễn Tuân
  • Nguyên Hồng
  • Thạch Lam

“Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm lúc đầu tên là “Dòng chữ cuối cùng” đăng trên tạp chí "Tao đàn" số 29 năm 1938, sau đó được in trong tập "Vang bóng một thời" - tập truyện ngắn giá trị viết về những thú chơi tao nhã, con người tài hoa thời phong kiến và đổi tên thành “Chữ người tử tù”.

Câu 2: Vì sao Huấn Cao bị kết án tử hình?

  • Giết người
  • Cướp của
  • Giết quan lại
  • Chống triều đình

Trong “Chữ người tử tù”, Huấn Cao bị kết án tử do chống lại triều đình. Ông cũng là nhà nho có tài viết chữ nhanh và đẹp. Trong đêm cuối cùng trước khi bị giải ra pháp trường, ông đã cho chữ viên quản ngục, người đối xử tốt với ông. Sau khi đã cho chữ, Huấn Cao khuyên hai người nên tìm về nơi thôn dã, bởi tấm lòng yêu cái đẹp của họ không thích hợp cho cuộc sống ở nơi hỗn loạn như nhà ngục. Những lời khuyên đó của Huấn Cao đã làm viên quản ngục xúc động vái lạy tử tù mà hai dòng nước mắt tuôn rơi. Người quản ngục đã rất đau lòng trước sự ra đi của Huấn Cao.

Câu 3: Ai là nguyên mẫu của Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”?

  • Nguyễn Đình Chiểu
  • Cao Bá Quát
  • Lê Văn Khôi
  • Lê Văn Duyệt

Theo sách “Thi nhân Việt Nam”, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao là danh nhân lịch sử Cao Bá Quát. Truyện ngắn "Chữ người tử tù" được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 hiện nay cả ở ban cơ bản và ban nâng cao.

Câu 4: Cao Bá Quát từng làm quan cho triều đại nào?

  • Trần
  • Hậu Lê
  • Nguyễn
  • Tây Sơn

Cao Bá Quát [1809-1855] từng làm quan dưới 3 triều vua Nguyễn là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Do bất mãn với chế độ phong kiến thối nát đương thời, ông từ quan, về quê quy ẩn. Năm 1854, ông cùng một số thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân, chống lại triều đình ở Mỹ Lương [Hà Tây]. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Cao Bá Quát bị triều đình kết án tử.

Câu 5: Cao Bá Quát nổi tiếng là người…?

  • Ngay thẳng
  • Viết chữ đẹp
  • Giỏi văn chương
  • Cả 3 nhận định trên

Cao Bá Quát quê ở tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Ông nổi tiếng chính trực, ngay thắng, ghét cường quyền. Lúc nhỏ, Cao Bá Quát viết chữ rất xấu. Sau nhiều năm khổ luyện, ông viết chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Ông cũng là một trong những tác giả văn chương nổi tiếng đương thời.

Câu 6. Tác phẩm nào do Cao Bá Quát sáng tác?

  • Mẫn Hiên thi tập
  • Cao Chu Thần thi tập
  • Cao Chu Thần di thảo
  • Cả 3 tác phẩm trên

Cao Bá Quát để lại sự nghiệp văn chương đồ sộ, đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà. Dù bị thất lạc nhiều, đến nay, hơn 1.300 tác phẩm văn thơ của ông còn được lưu giữ. Cao Bá Quát là một trong những tác giả lớn nhất của nền văn học Việt Nam trong thế kỷ 19.

Câu 7. Vua nào từng ca ngợi “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán”?

  • Minh Mạng
  • Thiệu Trị
  • Tự Đức
  • Khải Định

Tài văn thơ Cao Bá Quát đương thời rất được người đời kính trọng. Tự Đức [ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn] từng làm thơ ca ngợi ông: “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán”, nghĩa là văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, đời Tiền Hán không có ai bằng.

Câu 8. Tác phẩm nào hiện còn lưu lại bút tích của Cao Bá Quát?

  • Mai Am thi tập
  • Ngự Chế Việt sử tổng vịnh
  • Luận ngữ diễn ca
  • Cả 3 đáp án trên

Tương truyền, chữ viết của ông như “rồng bay phượng múa”. Bút tích còn lại hiện nay được lưu trong bài đề tựa cuối cùng thuộc "Mai Am thi tập" của công chúa Lại Đức, con gái vua Minh Mạng.

Ông vua giỏi sáng tác nhạc, lên ngôi nhờ giấc mơ của người khác

Vị vua này bất ngờ lên ngôi nhờ giấc mơ của người khác. Ông đồng thời cũng là hoàng đế có nhiều tài lẻ như sáng tác nhạc, điêu khắc.

19:38 17/6/2020

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, suốt đời ông tôn thờ và “đi tìm cái đẹp, cái thật”, tha thiết vun đắp “thiên lương” cho mỗi “cái tôi” cá nhân nảy nở và phát triển tốt đẹp. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị đạo đức và văn hóa cổ truyền của dân tộc. Trong sự bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời, Nguyễn Tuân quay về với quá khứ tìm những vẻ đẹp giờ chỉ còn vang bóng; ông đã ngưỡng mộ và tìm đến Cao Bá Quát. Và đây là cơ sở, là nguyên mẫu để Nguyễn Tuân sáng tạo nên hình tượng nhân vật Huấn Cao. Huấn Cao kết tinh tài hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân, hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm. Về cảnh ngộ, Huấn Cao vốn là thủ lĩnh của những kẻ ngang tàng đã dám đứng lên chống lại triều đình, bị kết án, giam cầm, đợi ngày ra pháp trường. Như vậy, ông là kẻ tử tù, là người sắp đi vào cõi chết. Nguyễn Tuân tập trung bút lực và cảm hứng để khắc họa thành nhân vật lí tưởng với những nét nổi bật: một nho sĩ tài hoa, một trang anh hùng dũng liệt và một con người có thiên lương trong sáng.

– Trong cái tài văn của Huấn Cao, tác giả tô đậm tài viết chữ đẹp. Chữ Hán là loại chữ tượng hình và viết chữ Hán trở thành một nghệ thuật được gọi là thư pháp, gồm hai phương diện mỹ thuật của nét chữ và ý nghĩa của câu chữ. Lối viết ấy gần như vẽ tranh với ngọn bút lông mềm mại và người xưa treo chữ trong nhà như treo bức họa quý. Chữ trong tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay hay quen viết, mà chính là kết tụ tinh hoa, tâm huyết của người nghệ sĩ. Trong tác phẩm, sự tài hoa trong nghệ thuật thư pháp của Huấn Cao được nhắc đến vừa trực tiếp vừa gián tiếp.

– Thứ nhất, qua lời đồn mang tính chất tụng ca, mang tính chất huyền thoại của nhân dân vùng tỉnh Sơn vẫn khen tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp. Cái tài viết chữ ấy được truyền tụng đến nỗi dầu chưa gặp người, chưa thấy chữ nhưng viên quản ngục và thầy thơ lại ở cái huyện nhỏ hẻo lánh đã đem lòng ngưỡng mộ. Sở nguyện cháy bỏng của quản ngục là có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Ông nói với thơ lại rằng: “Chữ của Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm … có chữ Huấn Cao treo trong nhà như có báu vật, không có ân hận suốt đời”. Nguyễn Tuân rất tinh tế, khéo léo sử dụng thêm các thủ pháp nghệ thuật khác để ca ngợi cái tài hiếm quý ấy của Huấn Cao. Đó là những tính toán, trăn trở, những biệt đãi, những đau khổ, nỗi hốt hoảng, hi vọng và tuyệt vọng, hồi hộp thành kính của viên quản ngục. Quản ngục đã bất chấp nguy hiểm vì không những quyết tâm, kiên trì và công phu, việc đối xử với một tử tù như thế đòi hỏi sự cam tâm lớn, quên đi cái tôi kiêu hãnh của bản thân. Quản ngục đã vượt qua tất cả. Bằng cách miêu tả đối thoại giữa quản ngục với thầy thơ lại, lối thể hiện nội tâm của quản ngục…Nguyễn Tuân đã tạo ra một Huấn Cao tài hoa hiếm có.

– Thứ hai, sự tài hoa của Huấn Cao còn được thể hiện rất rõ và trực tiếp qua cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Một cảnh tượng được Nguyễn Tuân trân trọng dụng công miêu tả tỉ mỉ để xứng tầm với sự tài hoa của Huấn Cao và cái tâm của quản ngục.

Cái tài của Huấn Cao là cái tài mang tính văn hóa, nghệ sĩ, chỉ những người trí thức có chí lớn mới tu dưỡng rèn luyện mà gìn giữ được. Những con chữ ấy đâu chỉ là vật vô tri. Nó “nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Cũng chính cái tài đó của Huấn Cao đã có sức cảm hóa, giúp cho viên quản ngục thay đổi cả hành động, tâm hồn và quan niệm sống; làm bừng sáng cái quan hệ vốn đối nghịch thành hòa hợp tri kỉ, tri âm giữa Huấn Cao và thầy trò quản ngục.  

  1. Trang anh hùng có dũng khí, hiên ngang, bất khuất:

– Đối với những con người có chí khí, nét chữ không đơn thuần là những kí hiệu ngôn ngữ mà còn là sự thể hiện toàn bộ nhân cách con người. Chính Huấn Cao đã nói “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Ở đây phong cách nét bút – con người – được thể hiện một cách trọn vẹn.

– Những nét chữ như được đúc bằng khối vuông vắn được viết ra từ bàn tay, tâm hồn con người có khí phách cứng cỏi, lẫm liệt, hào hùng. Lẽ ra, với tài văn chương ấy, nếu chịu quy thuận triều đình, Huấn Cao có thể trở thành vị quan quyền cao chức trọng, bổng lộc đủ đầy; với nhân cách cao đẹp có thể là bậc thầy của bao kẻ khác trong thiên hạ. Cái tài, cái tâm của Huấn Cao rực rỡ, chiếu sáng lên toàn bộ cuộc đời ông, chi phối hành động lớn nhỏ của ông. Không chịu quỵ lụy vào luồn ra cúi, không chịu cảnh “cá chậu chim lồng”, ông nổi dậy chống lại triều đình bất công. Sự nghiệp anh hùng không thành, ông bị bắt, bị khép vào tội đại nghịch và phải lãnh án chém. “Hùm thiêng thất thế sa cơ cũng hèn”, người đời thường nói thế, song Huấn Cao, tuy sa cơ, thất thế, ông vẫn sống những ngày ung dung, đàng hoàng.

– Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ đẹp còn có “tài bẻ khóa, vượt ngục”. Như vậy, cái dũng khí phá bỏ gông xiềng của ông Huấn cũng vang dội, loan truyền trong vùng như một huyền thoại khiến những con người nắm giữ gông xiềng phải nể sợ. Hành động rỗ chiếc gông nặng đánh thuỳnh một cái của Huấn Cao và các bạn thể hiện khí phách bất khuất của kẻ sĩ vượt lên trên cái tầm thường, vươn tới cái lí tưởng đầy sắc thái tự do, ngang dọc. Sau đó ông đi vào tù một cách thản nhiên, lạnh lùng. Đó là phong thái của đấng trượng phu dám làm dám chịu, không hề sợ hãi.

– Trong những ngày bị giam, ông không thèm đếm xỉa đến bọn lính, xem những kẻ đại diện quyền lực thống trị là “tiểu nhân thị oai”. Nhận được rượu thịt của quản ngục, ông bình thản ăn “coi như đó là việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Lúc viên quản ngục tỏ ý nương nhẹ ông cũng chẳng một chút nao lòng. Ông tỏ ra khinh bạc, nói những lời ngạo nghễ “ta chỉ muốn một điều, ngươi đừng đặt chân đến đây” đầy dụng ý. Ở câu nói khinh bạc đến điều ấy thể hiện cái tâm trong sáng của Huấn Cao. Hành động ấy, câu nói ấy là một phép thử. Nếu quản ngục là một người hướng thiện, quyết định cho chữ của ông sau này là một sự gửi trao. Đồng thời bảo vệ viên quản ngục trước cái nhìn ranh mãnh của bọn lính gác tránh được những nguy hiểm về mặt tính mạng. Nếu câu nói xúc phạm ấy khiến quản ngục phải dùng đến bạo lực trị ông thì đó là bản chất của bọn thống trị không có gì đáng để quan tâm.

– Có thể nói, Huấn Cao dù thất thế nhưng vẫn hiên ngang, thân xác bị xiềng xích nhưng tinh thần hoàn toàn tự do. Đó là phong thái của người anh hùng xem cái chết nhẹ như lông hồng, chẳng vì biệt đãi mà bị lung lạc hay vì quyền thế mà run sợ. Đúng là nhân cách lí tưởng mà người đời hàng ngàn năm vẫn ước.

  1. Người có “thiên lương trong sáng”:

– Nhưng Huấn Cao không phải là kẻ tự kiêu đầy ngạo mạn, không phải sống với cái cao ngạo của kẻ có tài mà sống với thiên lương trong sáng. Đó chính là nhân vật có cái tâm bên cạnh cái tài, có tâm hồn đầy xúc động đằng sau vẻ khinh bạc lạnh lùng. Huấn Cao chỉ ngạo mạn trước bạo lực, chỉ khinh thị những kẻ có nhân cách tầm thường. Con người tưởng như đúc bằng thép ấy lại tinh tế trong đối xử với con người.

– Ban đầu, ông tỏ vẻ xem thường quản ngục chỉ là một tên tiểu nhân thị oai và tỏ ra khinh bạc. Nhưng sau hiểu ra ngọn ngành, ông đã quyết định cho chữ. Ông cho chữ viên quản ngục không phải để trả ơn người đã biệt đãi mình, đã dâng rượu thịt cho mình trong những ngày cuối cuộc đời. Bởi ông có tài viết chữ đẹp, nhưng chỉ tặng những bạn bè, tri âm tri kỉ, chứ “không vì vàng bạc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”. Ông cho chữ viên quản ngục vì cảm động và trân trọng một nhân cách cao quý. “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ ông ít cho chữ”. Cho chữ, ông đã liệt quản ngục vào hàng tri kỉ của mình. Bởi vì ông đã nhận ra ở viên quản ngục như một đóa sen trong bùn, ông nói thành thật “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết một người như thầy quản đây mà lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ông đã đem tấm lòng tri âm để đáp lại một bậc tri kỉ. Phát hiện thấy một nhân cách cao quý giữa chốn tối tăm, ông không nỡ để cho nhân cách ấy hoen ố đi. Ông chân thành, ân cần dặn dò viên quản ngục những lời tâm huyết sau khi cho chữ “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi…Ở đây…khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhốc cả một đời lương thiện đi”.

– Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao thực sự tỏa sáng một cách toàn diện, hài hòa trong cảnh ông viết chữ. Đây là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, nó diễn ra dưới ngòi bút lãng mạn như một câu chuyện huyền thoại, đầy kịch tính.

– Giữa gian nhà ngục đầy bóng tối, phân chuột, phân gián, rệp…lại cháy lên một ngọn đuốc lửa rừng rực và sáng lên tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Vì nhà ngục là nơi giam cầm, đầy đọa con người, biểu tượng cho gông xiềng dã man lại diễn ra việc trái khoáy: người ta viết chữ tặng nhau, đàng hoàng bình thản như ngoài đời. Vì ông Huấn Cao là tử tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng lại ung dung viết chữ, đàng hoàng khuyên nhủ viên quản ngục. Còn thầy quản và viên thơ lại vốn là cai tù lại khúm núm, run run…như chấp nhận một sự thay bậc đổi ngôi. Hơn nữa, những con người này lại đang chạy đua với thời gian, với cái chết để tạo ra cái đẹp vĩnh cửu. Đó là những điều nghịch lí tạo ra một bức tranh tuyệt tác vừa hiện thực vừa siêu thực. Bức tranh ấy hiện thực vì có đủ màu sắc, hình khối, đường nét, có mùi thơm của thứ mực nho hảo hạng. Siêu thực vì nó kì diệu, huyền ảo, giàu ý nghĩa biểu tượng. Trong bức tranh ấy, hình tượng nhân vật Huấn Cao hiện lên lồng lộng, kì vĩ. Ông ung dung viết như dồn cả tâm lực vào từng nét chữ. Ông giải thích ý nghĩa của những dòng chữ, rồi thưởng thức mùi mực thơm, nâng quản ngục đứng dậy và cuối cùng cất lời khuyên quản ngục. Những con chữ “với những nét vuông vắn, tươi tắn” và lời nói chân thành ấy phải chăng là di huấn thiêng liêng mà người anh hùng đã thức tỉnh viên quản ngục và thầy thơ lại. Lời khuyên của Huấn Cao mang ý nghĩa cái đẹp nảy sinh nơi đất chết nhưng không thể chung sống với sự tàn bạo. Nó có tác dụng cùng với cái đẹp tạo nên sức mạnh cảm hóa con người. Sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, nhân cách cao thượng đối với cái xấu, cái ác, cái thấp hèn. Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm tin vào con người và đưa ra tuyên ngôn: cái đẹp phải gắn với cái thiện, người nghệ sĩ trước hết phải có thiên lương. Ở đây, cái đẹp chiến thắng tất cả, cái đẹp lên ngôi và “cứu vớt con người”. Thủ pháp đối lập được khai thác triệt để tạo nên cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Cái đẹp được tạo ra trên mảnh đất chết, bởi một người sắp chết chính vì vậy mà giá trị của lòng yêu cái đẹp và cái đẹp được tôn vinh.

– Khi cho chữ viên quản ngục, Huấn Cao nở nụ cười như mãn nguyện vì có người yêu và trân trọng cái đẹp. Rõ ràng, ông không chỉ có tài viết chữ, có khả năng sáng tạo cái đẹp mà còn hết mực trân trọng người biết thưởng thức cái đẹp. Với ông, thiên lương là nét quý giá nhất của con người.

– Nghệ thuật: Huấn Cao là hình tượng mang vẻ đẹp lãng mạn, kết tinh của những phẩm chất phi thường, cao đẹp, vẻ đẹp hài hòa của nhân – trí – dũng. Khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời” HC có trách nhiệm với thời cuộc. Qua đó tác giả bộc lộ quan niệm về cái đẹp: cái tài phải đi với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau.

+ Cách xây dựng nhân vật của tác giả thật độc đáo. Huấn Cao là nhân vật trung tâm nhưng số trang tác giả trực tiếp miêu tả nhân vật này không nhiều [so với các nhân vật Chí Phèo, Tràng, Mị]. Tác giả không chú ý xây dựng nhân vật theo kiểu miêu tả chi tiết ngoại hình hay xuất thân. Chỉ một vài nét đủ gợi lên chân dung một con người. Nhà văn chủ yếu tập trung khắc họa những phẩm chất của một con người lí tưởng. Mở đầu tác phẩm Huấn Cao tuy không được miêu tả trực tiếp nhưng vẫn cứ hiện ra đầy ấn tượng qua đối thoại giữa quản ngục và thầy thơ lại, qua sự trằn trọc trong đêm của viên quan coi ngục. Đó là bút pháp “vẽ mây nẩy trăng”. Đến lúc xuất hiện, Huấn Cao in đậm nét phong cách của một đấng tài hoa, một hào kiệt, một tráng sĩ. Chân dung Huấn Cao được khắc họa theo lối lí tưởng hóa của ngòi bút lãng mạn ngợi ca, trở thành hình tượng đẹp đẽ trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân và trong lòng đọc giả.

Video liên quan

Chủ Đề